Đề bài: Lòng yêu nước và cảm nhận về “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích “Đất nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng)
Bài văn mẫu cảm nhận về “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm
Đất nước là chủ đề lớn xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển của văn học Việt Nam từ văn học dân gian đến văn học viết. Riêng đối với văn học ra đời trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ cứu nước thì chủ đề đất nước là chủ đề nổi bật làm nên giá trị tác phẩm và giá trị cơ bản của nền vă học từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Trong thơ ca viết về đất nước đã có những bài hay như: Cảnh Khuya, Cảnh rừng Việt Bắc (Hồ Chí Minh), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Việt Bắc (Tố Hữu), Quê hương (Tế Hanh), Quê hương (Giang Nam), Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng (Chế Lan Viên)… Trong bản hợp xướng của thơ ca viết về chủ đề đất nước, đoạn trích Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm như một khúc nhạc có giai điệu riêng vừa hào hung, vừa sâu lắng.
Nét đặc sắc của đoạn trích Đất nước là đất nước được cảm nhận một cách toàn vẹn trên nhiều phương diện, từ chiều rộng không gia, chiều dài thời gian đến chiều sâu vă hóa, tất cả đều được chiếu rọi bởi tư tưgr “Đất Nước của nhân dân”. Đoạn trích Đất Nước có sự kết hợp hài hòa giữa trữ tình và chính luận vừa thể hiện lòng yêu nước, vừa nói lên nhận thức về đất nước.
Trước hết, đất nước được cảm nhận từ những gì gần gũi, quen thuộc, gắn bó với mỗi cán nhân trong cuộc sống hàng ngày. Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không chung chung trừu tượng mà là những gì cụ thể, thân thiết, gần gũi, ai cũng có thể cảm nhận được.
Đất nước xa xưa bởi khi mỗi người lớn lên thì đất nước đã có rồi. Tuy nhiên, đất nước không hề xa vời bởi đất nước là những gì gắn bó với ta trong cuộc sống hàng ngày. Đất nước có trong câu chuyện ngày xưa mẹ thường hay kể; đất nước là miếng trầu bà ăn; đất nước là mái ấm ga đình, là cái kèo, cái cột nơi nhà ta ở; đất nước là hạt gạo một nắng hai sương, là sự lam lũ, vất vả của cha mẹ, là những tình cảm thủy chung son sắt:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cài kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai dương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Chỉ trong một đoạn thơ ngắn, tác giả cảm nhận đất nước từ câu chuyện bà kể, miếng trầu bà ăn, từ cuộc sống hàng ngày, cái kèo, cái cột, hạt gạo một nắng hai sương, từ ca dao dân ca, “cha mẹ thương nhau từ gừng cay muối mặn” (lấy từ câu ca dao “Tay nâng chén muối đĩa gừng. Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau”).
Đất nước được cảm nhận trong không gian mênh mông, với rừng vàng biển bạc, với biên giới lãnh thổ bao la:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”.
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ, đất nước còn là không gian sống cụ thể của mỗi người. Đất nước đi vào đời sống riêng tư, hóa thân trong tình yêu đôi lứa:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm mát
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Khi tách đất nước làm hai thành tốt “đất” và “nước”, tác giả đã đưa đất nước từ một khái niệm trừu tượng trở thành một khái niệm cụ thể, gần gũi. “Đất” và “Nước” là hai yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người.
Đất Nước còn được cảm nhận trong không gian đằng đẵng sự tích Lạc Long Quân, Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”, từ sự ích các Vua Hùng dựng nước. Những huyền tích, huyền sử này gợi lên lịch sử lâu dài của đất nước. Hơn thế nữa, nó còn gợi lên được cả niềm tự hào của dân tộc. Bởi lẽ, sự tích Lạc Long Quân, Âu Cơ, sự tích về vua Hùng đã trở thành những giá trị lịch sử còn trường tồn mãi với thời gian, từ những người có học vấn uyên tâm đến những người lao động không biết chữ đều biết về nguồn gốc tổ tiên. Chính vì vậy, chỉ cần gợi lên nhữnghuyền tích, huyền sử ấy là đã thắp sáng lên ngọn lửa tự hào về truyền thống dân tộc vốn đã ủ sẵn trong mỗi người con đất Việt.
Nền văn hóa dân tộc cũng không phải là cái gì chung chung, trừu twgj mà là những gì rất gần gũi, đã là người Việt Nam thì ai cũng cảm nhận được. Văn hóa dân tộc là những phong tục tập quán có từ bao đời nhưng vẫn được giữ gìn phát huy trong hiện tại. Nguyễn Khoa ĐIềm có cách định nghĩa về vă hóa giản dị mà sâu sắc.
Từ những cảm nhận trên, Nguyễn Khoa Điềm đi tới ý tưởng: đất nước không chỉ là cái khách thể bên ngoài con người mà đất nước còn là cái chủ thể trong mỗi con người. Chính vì vậy mà mỗi người đều phải có trách nhiệm với đất nước.
Đất nước đã hóa thân trong mỗi cuộc đời, trong anh và trong em, trong mỗi chung ta đều có một phần đât nước. Đất nước là máu xương của chính mình, do vậy mà mỗi con người phải biết gắn bó và san sẻ, cao hơn thế, mỗi người “phải biết hóa thân cho dáng hình xứ xở/Làm nên đất nước muôn đời”.
Cảm nhận đất nước có trong mỗi gia đình là cách cảm nhận của nhà thơ viết trong những năm tháng đánh Mĩ. Đó cũng là cảm nhận về đất nước của Chế Lan Viên:
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.
Con người sẽ nêu cao tinh thần ý thức trách nhiệm cá nhân đối với đất nước là nét đặc sắc trong cảm nhận về đất nước. Nói về tư tưởng đất nước của nhân dân, tác giả đã sử dụng rộng rãi chất liệu dân gian văn hóa dân gian với thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao tục ngữ. Những câu ca dao là nguồn gốc, là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm sáng tác. Câu thơ “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn” gợi về sự tích “trầu cau” để giải thích một phong tục tập quán đã có từ thời xa xưa, thời các vua Hùng. Trừ truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân, tác giả đã viết nên câu thơ: “Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại” và từ câu ca dao “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc, tiếc công tìm vàng”, Nguyễn Khoa Điềm đã viết thành câu thơ: “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để nói về đất nước không đơn thuần là thủ pháp nghệ thuật mà còn là sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “Đất Nước” của nhân dân. Bởi lẽ viết về đất nước của nhân dân thì không gì hay hơn là sử dụng ngay lời ăn tiếng nói của nhân dân, sử dụng những sáng tạo của nhân dân.
Không gian địa lí, thời gian lịch sử, nền vă hóa dân tộc đều được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận trong sự gắn bó với nhân dân, là sáng tạo của nhân dân.
Xuất phát từ tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, nhà thơ đã có những cái nhìn kì thú về những danh lam thắng cảnh của đất nước. Những danh lam thắng cảnh của Vịnh Hạ Long như núi Bút, non Nghiên, hòn Trống Mái… đâu chỉ là món quà của thiên nhiên ban tặng cho con người mà còn là sự hóa thân của cuộc sống, là mơ ước của bao người dân bình dị:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những hòn Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trông Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Nếu không có bao người vợ thủy chung mòn mỏi đợi chờ chồng qua bao cuộc chiến tranh thì làm sao có sự tích về hòn Vọng phu trên cả ba miền đất nước. Nếu không có truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước thì sao có cách cảm nhận về đồi núi Phong Châu như chín mươi chín con voi cùng quy đầu về đất Tổ. Nếu không có những người học trò nghèo gần gan, quyết chí theo nghiệp bút nghiên thì làm sao có sự tích về núi Bút, non Nghiên. Qua sự cảm nhận của nhà thơ thì chính nhân dân đã hóa thân làm nên hình hài đất nước.
Trên đất nước Việt Nam, những tên đất, tên làng cũng mang tên những con người thật bình dị vô cùng: ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm. Chính những con người vô danh này đã góp công làm nên đất nước và được nhân dân mãi lưu truyền.
Với Nguyễn Khoa Điềm, lịch sử cũng do nhân dân tạo ra. Vì vậy, khi nói về lịch sử dân tộc, nhà thơ không nhắc đến những triều đại nổi danh, những anh hùng xuất chúng mà ghi nhận công lao của những anh hùng vô danh. Những anh hùng vô danh ấy chính là nhân dân trong mọi thời đại. Họ là những con người sống hay chết đều “giản dị”, “bình tâm”, không ai “nhớ mặt đặt tên” nhưng họ là những người đã làm nên đất nước. Những anh hùng vô danh, hi sinh cho đất nước mà không hề nghĩ tới bảng vàng, bia đá, nhưng tên tuổi họ vẫn được lưu giữ đến muôn đời, công lao của họ còn sống mãi trong lòng nhân dân đất nước. Khẳng định vai trò của nhân dân đối với lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm đã trả lại cho đất nước chủ nhân chân chính, đó là nhân dân.
Nền văn hóa dân tộc cũng là sáng tạo của nhân dân, gắn bó với nhân dân. Nhân dân không những là người sáng tạo ra những giá trị vật chất mà còn là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần. Nhân dân tạo ra từ ngọn lửa, hạt lúa, sáng tạo ra cả ngôn ngữ. “Họ truyền gọng điệu mình cho con tập nói/Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Nhà thơ đã sử dụng những động từ: giữ, truyền, gánh… đem lại sự cảm nhận lịch sử tiến hóa là một quá trình lao động của nhân dân, sự tiến hóa của lịch sử như cuộc chạy tiếp sức giữa các thế hệ để ngọn đuốc của truyền thống vă hóa không bao giờ tắt.
Khi khẳng định vai trò sáng tạo văn hóa của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm lại trở về với kho tàng vă hóa dân gian, trở về với ca dao, tục ngữ. Bởi lẽ, vă hóa dân gian, ca dao tục ngữ vừa là sáng tạo của nhân dân, vừa là nơi gửi gắm tâm hồn nhân dân, đất nước. Trong dất nhiều câu ca dao, tục ngữ, tác giả chỉ chọn ra ý của ba câu ca dao nói về hai truyền thống lớn của dân tộc. Đó là truyền thống nhân dái, nghĩa tình: “Dạy em biết yêu anh từ thuở trong nôi”, lấy từ trong câu ca dao: “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Đó là truyền thống yêu nước bất khuất “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/Đi trả thù mà không sợ dài lâu” lấy từ câu ca dao “Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què”.
Nếu như ở bài thơ Bên kia Sông Đuống, nhà thơ Hoàng Cầm tự hào về truyền thống văn hóa quê hương; ở bài thơ Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm tự hào về truyền thống kiên cường, bất khuất; ở bài Việt Bắc của Tố Hữu là niềm tự hào về truyền thống nhân ái, nghĩa tình của người Việt Nam thì ở Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là niềm tự hào về nhân dân. Nhân dân là người sáng tạo, giữ gìn và phát triển đất nước về mọi phương diện, nhân dân hóa thân vào đất nước:
Ôi Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Có nhân dân, đất nước mãi trường tồn:
Có ngoại xâm thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân.
Từ tưởng “Đất Nước của nhân dân” là tư tưởng đã từng xuất hiện trong lịch sử. Ở Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm:
Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới.
Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một tượng đài bi tráng về người anh húng nông dân nghĩa sĩ. Nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu cũng đã khẳng định sự gắn bó giữa nhân dân và đất nước:
Dân là dân nước, nước là nước dân
(Hải ngoại huyết thư)
Trong bài Đất nước, Nguyễn Đình Thi cũng khẳng định sự gắn bó với đất nước của những người lao động bình dị:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.
Những người áo vải, những người lao động khi đứng lên bảo vệ Tổ quốc mìn thì chính họ trở thành những anh hùng của mọi thời đại mới.
Tiếp tục tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích Đất Nước đã nâng tư tưởng này lên một tầm cao mới. Đất Nước được cảm nhận từ nhiều phương diện và tất cả đều do nhân dân sáng tạo ra, Nhân dân là chủ nhân của đất nước. Tác phẩm đã góp một tiếng nói mới mẻ và sâu sắc về chủ đề đất nước.
Bài văn mẫu số 2 cảm nhận về “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm
Lòng yêu nước luôn là nguồn cảm hứng chưa bao giờ vơi cạn trong lịch sử văn học dân tộc ta. Nối tiếp cảm hứng này, đoạn trích “Đất nước” trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã có những khám phá mới mẻ trước một chủ đề, một đối tượng tưởng chừng đã cũ nhưng với vốn văn hóa, với trí tuệ, với sự rung cảm chân thành, Nguyễn Khoa Điềm đã góp những cảm nhận rất độc đáo, rất riêng về đất nước:
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất Nước của nhân dân. Đất nước của ca dao thần thoại.
Bằng cách hóa thân vào nhân vật, nhân vật “anh” tâm tình với nhân vật “em”, Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận đất nước đã có tự ngàn xưa. Khi ta được sinh ra đất nước đã bao bọc, đã nuôi dưỡng đời sống, tâm hồn nhưng đất nước được Nguyễn Khoa Điềm gợi lên từ những sự vật, hình ảnh gần gũi, từ những sinh hoạt thường ngày trong mỗi gia đình Việt Nam ta. Lòng yêu nước, truyền thống lịch sử lâu dài của đất nươc được gắn với những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể cho ta ngày tuổi thơ, từ miếng trầu bây giờ bà ăn. Lòng yêu nước được gợi lên từ hình ảnh cây tre làng thân thiết, từ tục “bới tóc sau đầu”, từ câu ca dao “gừng cay muối mặn”, từ “cái kèo, cái cột”, từ “hạt gạo một nắng hai sương”. Để cảm nhận thật cụ thể về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụn thủ pháp nghệ thuật chiến tự. Đất nước là một từ ghép bao gồm hai thành tố “đất” và “nước”, nhưng mang nghĩa bóng. Nguyễn Khoa Điềm đã tách đôi từ “đất nước” để định nghĩa từng thành tố “đất” và “nước”.
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc:
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở.
Từ đây, dòng suy tưởng Nguyễn Khoa Điềm ngược về quá khứ nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu cơ, không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khoa ĐIềm nhắc đến đầu tiên và dài nhất về truyền thuyết này. Đây là truyền thuyết giải thích và khẳng định cội nguồn của dân tộc Việt Nam, tạo cơ sở xây đắp tình đoàn kết. Một dân tộc nhỏ bé đến mấy cũng có thể phát triển vững bền trước thế lực ngoại xâm tàn bạn chính là nhờ sức mạnh đoàn kết. Như vậy, nhà thơ đã khơi dậy truyền thống lịch sử lâu dài của dân tộc từ những gì bình dị nhất. Trong những điều tưởng chừng bé nhỏ, bình dị ấy lại ẩn chứa chiều dài của bề dày lịch sử văn hóa của một đất nước. Những điều tưởng chừng bình thường ấy đã có từ ngàn xưa và sẽ sống mãi với dân tộc Việt Nam. Đất nước vừa gần gũi bình dị trong cuộc sống hàng ngày như sự sống, hơi thở của con người, của đất nước.
Sau khi khám phá cội nguồn đất nước, dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm lý giải về những người làm nên đất nước. Nhìn lại trường kì lịch sử, bao thế hệ nhân dân bằng hồ hôi xương máu cảu mình đã lao động xây dựng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Lòng yêu nước ở chương thơ này gắn liền với tình yêu nhân dân, cùng niềm tự hạo, sức mạnh và vai trờ to lớn của nhân dân. Lâu nay khi dựng lại quá trình lịch sử dân tộc, các tài liệu khoa học thường dựa vào các triều đại, dòng họ, nhắc đến tên tuổi các cá nhân kiệt xuất hau những chiến công hiển hách, nhưng ở trích đoạn Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không hề một lần nhắc tới tên tuổi cá nhân nào mà luôn gắn bốn nghìn năm đất nước với các thế hệ người Việt. Bằng đoạn thơ dài, Nguyễn Khoa Điềm lần lượt làm sáng tỏ nhân dân là ai, nhân dân có những phẩm chất cao quý như thế nào, vai trò to lớn của nhân dân trong trường kì lịch sử.
Nhìn lại suốt bốn ngàn năm đất nước, nhân dân là tầng lớn những con người bền bỉ xây dựng và bảo vệ đất nước. Khi đất nước thanh bình, nhân dân chỉ “côi cút làm ăn lo toan nghèo khó”, họ thầm lặng cần cù trên cánh đồng, trên mảnh vườn thân thuộc. Kho đất nước có nạn ngoại xâm, họ sẵn sàng ra trận cống hiến đời mình cho nền độc lập:
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh.
Bằng giọng thơ tự nhiên, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả lẽ sống bình dị của nhân dân. Đối với họ, cần cù làm lụng hau ra trận đánh giặc vì nghĩa vụ đối với ộng đồng, vì hạnh phúc yên ấm của gia đình. Khi người vợ ở nhà nuôi cha mẹ già, con thơ cho chồng ra trận, vì trách nhiệm đối với gia đình, cũng có nghĩa là vì độc lập dân tộc. Tác giả đã dùng lại cách nói của người xưa “nuôi cái cùng con” để dợi lên đạo lí sống từ ngàn năm xưa mà nhân dân gìn giữ. Họ cứ thầm lặng cống hiến đời mình làm nên đất nước muôn đời:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình yên
Khong ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Nhân dân là lực ợng đã sáng tạo, giữ gìn và truyền lại mọi tài sản vật chất cũng như mọi giá trị tinh thần làm nên đất nước:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu minh cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, lên làng trong mỗi chuyến di dân.
Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận vai trò nhân dân qua một hệ thống hình ảnh rất cụ thể nhưng lại mang ý nghĩa khái quát sâu xa. Trong mỗi hình ảnh ấy đều có sự hài hòa giữa vật chất và tinh thần. Hạt lúa, ngọn lửa đâu chỉ là vật chất mà còn là sự sống, là hơi ấm, tình thương được nhân dân truyền từ đời này sang đời khác, từ nhà này qua nhà khác. Giọng điệu, tiếng nói là thứ tài sản vô cùng quý báu của một dân tộc. Nhân dân truyền giọng điệu của mình cho con cháu cũng là truyền giá trị tinh thần, bản sắc văn hóa, và cao hơn nữa là truyền đạo lí sống. Tên xã tên làng đâu chỉ là tên mà trong đó đã kết đọng truyền thống lịch sử, địa lí hau nghề nghiệp riêng của một miền quê nào đó. Nhân dân đi đến đâu thì mang theo và phát huy bản sắc quê hương mìn đến đó.
Mọi cảm nhận, khám phá về hình tượng đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đều nhằm hướng tới đối tượng cụ thể, đó là tầng lớn thanh niên, học sinh, sinh viên ở các đô thị miền Nam. Hơn nữa, tác phẩm lại ra đời trong những năm chiến tranh các liệt, khi vận mệnh dân tộc đứng trước những thử thách lớn. Vì vậy lòng yêu nước ở đây không chỉ dừng lại ở nhận thức, tình cảm mà phải dẫn tới hành động cống hiến. Bao giờ cũng vậy, lòng yêu nước chân chính phải phải gắn cùng ý thức đấu tranh, với trách nhiệm cống hiến cuộc đời cá nhân cho cộng đồng. Nhằm nhắc nhở trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay trước vận mệnh của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày sự khám phá, cảm nhận về đất nước ngày một sâu rộng. Ban đầu, Đất Nước là những gì cụ thể, bình dị trong đời sống của chúng ta, Đất Nước ở xung quanh, nhưng đến đoạn thơ sau, Đất nước đã ở trong ta, Đất nước có trong mỗi người”
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn trong to lớn.
Bằng cách diễn đạt theo lối vượt cấp, nhà thơ cứ dần dần mở rộng đất nước trên hình diện không gia mang tính cộng đồng. “Trong anh và em”, trong mỗi con người đang sống hôm nay đều có một phần Đất Nước. Cá nhân nào mà chẳng thừa hưởng một phần từ người đi trước để lại, một phần giá trị vật chất và tinh thần của Đất Nước. “Khi anh và em cầm tay nhau” rồi “khi chúng ta cầm tay mọi người”, Đất Nước mới “vẹn tròn to lớn”. Ở từng cấp độ, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng từ ngữ gợ cảm xúc và nhận thức phù hợp hại hòa nông thắm gợi lên sắc thái thiết tha của tình bạn, tình yêu. Cụm từ “vẹn tròn to lớn” gợ lên tính xã hội, tính cộng đồng. Đặc biệt cụm từ “hai đứa” cùng giọng tâm tình đã đem đến cho câu thơ không khí thân ái, chan hòa.
Không chỉ cảm nhận đất nước rộng lớn trên bình diện không gian, Nguyễn Khoa Điềm còn khẳng định đất nước vững bền phát triển theo chiều thời gian:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng.
Đất nước ngày một giàu đẹp tươi sáng hơn cùng những thế hệ sau. Thế hệ sau cứ tiếp nối thế hệ trước để đưa đất nước đến bến bờ mới. Hình như khi cảm nhận tương lai đất nước, tâm hồn Nguyễn Khoa Điềm bỗng trở nên thơ mộng, lãng mạn. Mọi cảm nhận về đất nước gắn với tình yêu con người đã kết tinh lại trong lời nhắc nhủ thấm thía trách nhiệm đối với cộng đồng:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho hình dáng xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đến đây, nhà thơ gợi nhắc nghĩa vụ thiêng liêng của từng cá nhận trước vận mệnh đất nước. Khi mói “Đất Nước là máu xương của mình” thì đất nước ấy trở thành một phần cơ thể, thành sự sống, thành cả tâm linh của mỗi chúng ta. Những con người đang sống hôm nay đều mang trong mình một phần đất nước thì phải biết gắn bó và san sẻ. Khi gắn kết với cộng đồng cũng là đang san sẻ với chính mình. Mọi người sẽ gắn bó trong sự chia sẻ. Từ đây ta nhận ra nhân sinh quan của con người cách mạng ở thời đại chúng ta. Sau Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu cũng khẳng định quan niệm gắn bó và san sẻ, cống hiến và hưởng thụ sâu sắc ấy:
Nếu là con chim, chiếc lá
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Nguyễn Khoa Điềm còn đưa ra quan niệm về sự hóa thân của những con người bình dị làm nên danh lam thắng cảnh, sự tích sông núi để sống mãi muôn đời cùng đất nước:
Những người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Tóm lại, với những cảm xúc, suy tư nồng thắm sâu sắc về đất nước, về nhân dân, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của thanh niên trong thời đại mới. Với lối thơ dung dị mà truyền cảm, đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa ĐIềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về đề tài đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất Nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết và thiêng liêng. Đọc Đất Nước của Nguyễn Khoa ĐIềm, ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại. Những vần thơ ấy sẽ vượt qua thử thách của thời gian và sống mãi trong lòng người đọc.
Với bài văn mẫu ” Cảm nhận về “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm ở trên, chúc các em có thể tham khảo ôn thi tốt để làm được những bài văn đạt điểm cao hơn.