Đề bài: Phân tích 12 khổ thơ đầu bài thơ “ Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên
Bài văn mẫu Phân tích 12 khổ thơ đầu bài thơ “ Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Không phải ngẫu nhiên Chế Lan Viên đã lấy hai câu thơ trên làm lời đề từ cho bài thơ Tiếng hát con tàu, một bài thơ ra đời trong những năm tháng miền Bắc đang sục sôi khí thế của buổi đầu dựng xây cuộc sống mới. Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên đã ra đời trong muôn ngàn sợi nhớ thương vấn vương trong long nhà thơ và chắc chắn sẽ còn trường tồn với thời gian.
Có ai đó đã từng bảo: “Thơ là một nghệ thuật cao nhất của trí tưởng tượng”. Đó là cả một sự suy tư liên kết giữa hiện thực, tương lai và quá khứ. Nếu thơ anh không có hiện thực mà bản thân anh đã trải qua, bài thơ ấy sẽ trở nên sáo rỗng, rập khuôn một cách kệch cỡm. Trở về với Tiếng hát con tàu, ta nhận thấy hiện thực nổi lên rất rõ trong bài thơ Chế Lan Viên. Một hiện thực mà nhơ thơ sống, ôm ấp nâng niu suốt mười năm trường.
Đã qua rồi cái thời một thanh niên 17 tuổi với nỗi đau khôn nguôi về một nước Chàm “loang lổ máu”, một người làm thơ trẻ với ánh mắt nhìn oán hận “mang chi xuân đến gợi them sầu”. Thay vào đó là một thi sĩ trưởng thành, hồn nổi gió thời đại, tay muốn vơ trọn mọi nỗi niềm day dứt của một thế hệ tương lai và hiện tại.
Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng
Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp
Tài gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa long đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi lớn – một câu hỏi có tầm vóc bởi vì nó mang nặng những ưu tư, những biến chuyển vưa mơ hồ vừa rõ rệt trong long nhà thơ. Một câu hỏi Chế Lan Viên tự hỏi mình hay đang hỏi muôn lớp thanh niên thời đại đó? Nhưng có những nhờ thơ thiên về lối thơ bất khả giải, mà tâm tư, tư tưởng được nén trong những câu, những vần có phần khó hiểu! Càng đọc đẻ thấy mình như lạc vào một mê cung những vấn thích thú, vẫn lao đi vì trong mê cung ấy nhiều hương nhiều hoa quá.
Quang Dũng ngày xưa đã từng mơ mình là “mây ở đầu ô mây lang thang” để thoát khỏi sự gò bó khó chịu của ô thành phồn hoa chật hẹp. Chế Lan Viên không trực tiếp nói vậy! Bởi nhà thơ đã hóa than thành muôn người cùng một ý tưởng, cùng một suy nghĩ. Nhắc đến vầng trăng là nhắc đến những gì cao đẹp nhất, tròn trịa, trong lành nhất. Há chăng phải nhà thơ muốn ví những linh hồn người là những vầng trăng đó sao? Không phải vô tình khi Chế Lan Viên viết “tàu đói những vành trăng” ròi lại nhắc “tàu gọi anh đi sao chửa ra đi”? Theo ý tôi, con tàu ở đây có thể ví như nền văn học của nước nhà lúc bầy giờ. Một nền văn học biết chuyển động, biết hướng đến những mục đích cao và xa rộng tầm mắt. Và nền văn học ấy không thể chấp nhận những tâm hồn bị gò ép bởi những “giấc mơ con đè nát cuộc đời con”. Nền văn học ấy đòi hỏi tâm hồn nghệ sĩ. Nhưng tâm hồn có gió ngàn, đưa ta lên cao, để từ đó ta nhìn xuống trần gian để ta thốt lên: “Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp”. Một câu thơ mà chứa đựng hàm ý bao tình. Đặt con người là hữu hạn bên cạnh đất nước là vô hạn, Chế Lan Viên đã tự đưa ra nhiệm vụ cho mình và bạn bè. Tám câu thơ là một lời nhắc nhở, là một lời khuyên lớn của người bạn đường thương yêu “Chẳng có thơ đâu giữa long đóng khép. Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”. Câu thơ giục ta quay về không gian của Đôi mắt (Nam Cao). Trong truyện ngắn đó, Nam Cao đã đề ra một hướng nhìn mới đúng đắn, thay thế cho cái nhìn cũ thiên lệch, hẹp hòi của một tầng lớp nghệ sĩ cũ. Họ đứng ngoài lề của kháng chiến, của cuộc sống nên không thấy được vẻ hoành tráng của một dân tộc đang rẽ sóng đi lên. Họ không biết rằng những suy tư trong tâm hồn họ đã mục rỗng! Chế Lan Viên ý thức được điều đó và ông đã tình nguyện làm một người dẫn đường thì bao giờ cũng phải thuộc đường thuộc nẻo. Chế Lan Viên thuộc con đường lên Tây Bắc ấy bởi nhà thơ đã hòa mình vào cuộc kháng chiến “mười năm qua như ngọn lửa”, đã hòa mình và rỏ máu trên mảnh đất yêu thương, nên cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi lời thơ bỗng reo lên trong trẻo:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi bỗng ngừng gặp cánh tay đưa
Hình ảnh nai về suối cũ khiến lòng ta chợt dậy lên những vẫn thơ êm đềm, sâu lắng của Lưu Trọng Lư:
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Nhưng đã qua rồi những năm tháng nước nhà chơ vơ không nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Đã qua rồi những chiếc lá vàng úa buồn thê lương của mùa thu. Con nai vàng thơ ngây, ngơ ngác cũng đã ra đi. Hay nói đúng hơn, chú đã lột xác để trở thành chàng trai nai về suối cũ. Một chàng trai với những suy nghĩ mới mà luồng gió của thời đại đã thổi vào lòng anh những mùa xuân mới, những vườn xuân mới.
Những hình ảnh so sánh nối tiếp nhau dồn dập diễn tả bước chân ngày nào tiến lên Tây Bắc như “nai về suối cũ”, “cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa” hay “trẻ thơ đói lòng gặp sữa”, “chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”. So sánh là một viện pháp nâng cao ý tưởng, lời thơ nhưng rất dễ sáo mòn. Với Chế Lan Viên thì không! Những so sánh của ông đều có mục đích nhất định.
Nhân dân là tất cả những gì tốt đẹp nhất, thơm hương nhất của cuộc đời. Đó là bình sữa ngon, là mùa cho chim về làm tổ, là nguồn sống tiếp sức cho nhà thơ, cho người con thêm sức lực vươn tới để sống và phấn đấu.
Trừ hai khổ thơ đầu, còn lại toàn bài thơ là sự chìm lấp trong một biển nhớ thương đến day dứt lòng. Nhà thơ như đi trên bờ hiện tại mà nhỡn giới và linh hồn ngóng vọng về bờ quá khứ. Áp mặt lên bờ suy tưởng, nhà thơ nghĩ về những tháng ngày đã qua, những tháng ngày đã sống, đã gian lao và yêu thương. Hạnh phúc nhất là khi người ta có những kỉ niệm yêu thương, ấp ủ trong lòng. Hạnh phúc nhất là khi người ta có quá khứ để quay lại và nhìn xem mình đã lớn được bao nhiêu. Chế Lan Viên đã là người hạnh phúc nhất trong những người hạnh phúc. Bởi vì ông không chỉ có những kỉ niệm đẹp mà ông còn biết ôm ấp, biết giữ gìn, biết ghi lòng tạ dạ không quên những kỉ niệm xa xưa ấy.
Mỗi nỗi nhớ của nhà thơ đều mang âm hưởng tình nghĩa của một dân tộc. Nhớ về “người anh du kích” là nhớ về “ chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn/ chiếc áo nâu suốt một đời vá rách” hay chính là Chế Lan Viên cũng đang nhớ về một đất nước của những anh hùng áo vải cờ đào, những anh hùng nông dân nghèo khổ nhưng tâm hồn không nghèo, không hạn hẹp? Nhớ đến “thằng em liên lạc” cũng chính là nhớ đến lòng dũng cảm của em “rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ… Mười mấy năm tròn! Chưa mất một phong thư”; hay chính Chế Lan Viên đang nhớ về lòng dũng cảm của một dân tộc vĩ đại – dân tộc Việt Nam anh dũng hào hùng suốt bốn ngàn năm văn hiến? Nỗi nhỡ như trải qua suốt chiều dài của đêm công đồn, chiều rộng những con đường em liên lạc đã đi qua để rồi chúng hợp lại thành nỗi nhớ bóng dáng của một người mế nuôi bên bếp lửa. Cái bóng dáng gợi lên trong lòng bao thao thức về một hình ảnh người mẹ Việt Nam hiền hòa như dòng sữa xanh mát, như một bóng cây cổ thụ ngả trên con đường dài truân chuyên, nâng nỡ cho từng bữa ăn giấc ngủ.
Giữa những ngày giá rét, không phải ngọn lửa đã sưởi ấm lòng mà chính là tình mẹ mênh mông sưởi ấm tâm hồn tác giả dù “con với mế không phải hòn máu cắt”.
Nhưng nỗi nhớ của Chế Lan Viên trong bài thơ không chơi vơi như nỗi nhớ của Quang Dũng (Tây Tiến), cũng chẳng phải nỗi nhỡ bồn chồn của Nguyễn Đình Thi (Đất nước). Nỗi nhớ của Chế Lan Viên bao gồm những gì rất cụ thể, sâu sắc. Sự lặp lại từ “nhớ” trong bài thơ của Chế Lan Viên khong khiến cho người ta nhàm chán, mà còn cảm thấy thích thú vì mình đang được đi vào mộng tưởng của nhà thơ, rồi cùng nhà thơ tắm mình trong biển bao la đó:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn.
Dường như thơ Chế Lan Viên đi theo hướng thơ với Huy Cận, trong đó mỗi câu, mỗi từ đều được đem ra ngắm nghía kĩ lưỡng rồi thắm lên trên đó một vầng suy nghĩ sâu xa. Thơ triết lí dễ làm người ta nhàm chán nhưng khi đã hiểu bỗng đâm ra yêu nó! Nhất là đối với hai câu thơ của Chế Lan Viên:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Hai câu này là linh hồn của bài thơ. Nó giản dị, hồn nghiên như chính bản thân chân lí của cuộc sống. Nó bừng sáng vẻ đẹp như một buổi ban mai tràn đầy ánh dương. Thường thì những gì mình có, mình gặp gỡ hàng ngày dễ trở thành bình thường với mình. Nhưng rồi một ngày kia ra đi xa, một ngày ta là người của miền khác, những thứ bình thường kia bỗng trở nên quý giá. Chế Lan Viên cảm nhận được điều đó, thấu hiểu được điều đó vì chính ông cũng đã từng thốt lên:
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
Tình yêu ở đây được hiểu theo nhiều nghĩa. Lòng yêu mến của nhà thơ với mảnh đất xa lạ Tây Bắc, với những con người Tây Bắc đã ấp ủ đùm bọc nha thơ suốt những năm dài kháng chiến. Tình yêu của nhà thơ với quá khứ, với kỉ niệm xưa và cũng có thể đó là tình yêu của núi rừng Tây Bắc, của con người Tây Bắc đối với nhà thơ, một người con, một người anh, một người bạn, một người yêu, một con người đã từng đổ máu xuống mảnh đất anh hùng này:
Xứ thiêng liên rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân
Hai câu thơ cho ta thấy sức sống vĩ đại của miền đất Tây Bắc máu rỏ xuống và cây mọc lên. Tôi luôn luôn, mỗi khi đọc hai câu thơ này, hình dung ra những trái mang hình một giọt máu. Động từ “rỏ” cũng được nhà thơ dúng rất hay! “Rỏ” cho ta thấy một sự gì quá bền bỉ, quá kiên nhẫn! Một giọt máu rỏ, một sự hi vinh bền bỉ và kiên gan như những con người đất Việt nói chung và đất Tây Bắc nói riêng.
Trở về với linh hồn thơ, trở về với những niềm tâm sự sâu lắng của nhà thơ để bắt gặp chính linh hồn ta ở đấy. Một linh hồn không phải được cứu vớt từ nhưng lực lượng siêu hình, mà được cứu vớt bởi lương tâm và trách nhiệm với những gì mình đã sống và đã đi qua, không chỉ đơn thuần “đất đã hóa tâm hồn”, đất đã trở thành một phần máu xương máu cơ thể ta mà đất còn là một ngọn lửa nhỏ sưởi ấm lòng ta khi rét, là một vì sao soi đường mỗi khi ta lầm lạc.
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Giữa những dòng nhạc êm dịu đang chảy tràn đôi bờ quá khứ và hiện tại, màu vàng của cánh kiến bỗng sống lên náo nức – màu vàng của nhớ nhung, của tình yêu, của kỷ niệm.
Chưa bao giờ tôi đọc một bài thơ nhiều nỗi nhớ đến thế. Càng chưa bao giờ tôi đwọc đọc một bài thơ nhiều sự so sánh, liên tưởng kì lạ như thế. Những dòng thơ ấy tràn nhập màu sắc, hương vị của mùa xuân, tràn ngập một cái gì như tình người mà giàu hơn tình người nhiều lắm.
Đoạn thơ trích được dừng lại ở khổ thơ:
Đất nước gọi hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga
Mở đầu bằng một câu hỏi. Kết thúc bằng một câu hỏi. Để từ đó ta nhận ra một Chế Lan Viên luôn trăn trở, luôn lo âu, luôn tự hỏi mình, hỏi người để sống và vươn tới. Câu hỏi như một lời nhấn mạnh lần cuối cùng: Đã sống thì phải sống như một con người chân chính. Một con người có thủy có chung, có nghĩa có tình. Một con người biết hi hinh sự ấm áp nhỏ bé của riêng mình mà gánh lên vai trách nhiệm với đất nước.
Cả bài thơ như một bản giao hưởng lôi cuốn con người về kỷ niệm, về quá khứ, về tình người. Chế Lan Viên đã yêu quá khứ, thủy chung với kỉ niệm như ông từng yêu đời, yêu người. Không gian bài thơ tụ lại rồi khi vẫn còn là âm hưởng của một thời “điêu tàn” nhưng thấp thoáng sau đó là cả một vùng trời tươi sáng nơi mặt đất nở hoa và ngàn cây ra trái, nơi những ánh dương của một tâm hồn mới soi rọi đến muôn đời.
Bài thơ Tiếng hát con tàu tiêu biểu cho một nét phong cách thơ của Chế Lan Viên: triết luận – tâm tình. Bài thơ là một minh chứng cho năng lực sáng tạo dồi dào, bất tận của nhà thơ lớn. Song “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Đọc bài thơ, độc giả hiểu và trân trọng biết bao nhiêu hình ảnh một Chế Lan Viên thủy chung, nhân hậu. Thơ Chế Lan Viên vì thế vẫn luôn sáng mãi như “ánh sáng và phù sa”.
Với bài văn mẫu “Phân tích 12 khổ thơ đầu bài thơ “ Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên” ở trên, chúc các em có thể tham khảo để làm bài văn có kết quả tốt hơn.