Home Trung học Cơ SởLớp 9 Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.

by admin

Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.

Chàng Huy Cận ngày xưa hay sầu lắm!
Nỗi nhớ thương không biết đã ta chưa.

Đó là Huy Cận của “thuở xưa” khi đang là một nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Thơ ca của tác giả chất chứa nỗi u hoài cho kiếp nhân sinh. Nỗi buồn đó đã lan tỏa, tràn ngập vũ trụ, thiên nhiên. Cách mạng tháng Tám đã tái sinh nhiệm màu cho nhà thơ, thổi một luồng sinh khí mới vào hồn thơ của Huy Cận. Những áng thơ của ông trở nên “tươi nhạc, tươi vần” cất cao lời ngợi ca quê hương, nhịp điệu lao động của cuộc sống mới trên miền Bắc những buổi đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhân chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Hòn Gai năm 1958, Huy Cận cho ra đời bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thật đặc sắc.
Mở đầu bài thơ là nét phác họa thật sâu sắc về cảnh vật:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.

Hinh anh mat troi trong phan tich bai tho doan thuyen danh ca cua Huy can

Hình ảnh mặt trời trong phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

Một quang cảnh thật bao la, hoành tráng. Nghệ thuật so sánh “Mặt trời như hòn lửa” sử dụng thật khéo léo báo hiệu hoàng hôn đã buông xuống. Mặt trời khổng lồ đỏ rực thả những tia nắng loang loáng và chìm dần vào đại dương mênh mông. Chỉ bằng vài nét phác thảo, ngự trị khắp đại dương:

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Câu thơ là một liên tưởng thật độc đáo: vũ trụ là một ngôi nhà vĩ đại với đêm là cửa và sóng là then. Cơn sóng, bóng đêm ấy lại được nhân hóa như con người đang cài then sập cửa để nghỉ ngơi. Nhịp thơ mạnh mẽ, dứt khoát kết hợp với vần chắc “lửa, cửa”, âm thanh tắt lại như nhấn mạnh thời khắc chấm dứt mọi hoạt động của thiên nhiên vũ trụ.
Thật bất ngờ, đối lập với trạng thái tĩnh lặng của thiên nhiên là hoạt động của con người:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Ra khơi không phải chỉ là một chiếc thuyền lẻ loi, đơn độc mà là cả một đoàn thuyền đông đảo làm xao động, nhộn nhịp cả không gian. Từ “lại” khẳng định đây không phải là một chuyến đi đột xuất mà đã trở thành một công việc thường xuyên có mục đích. Khi đêm xuống, họ ra khơi, khi vũ trụ nghỉ ngơi thì ọc lao động. Thái độ tự nguyện, nhiệt tình lao động của họ thật đáng trân trọng quý mến.

Người ngư dân ra đi với tiếng hát rộn rã, sôi nổi. Tiếng hát xua tan màn đêm, phá tan không khí im lìm của đêm tối. Tiếng hát vang lên từ bầu nhiệt huyết yêu cuộc sống, yêu lao động, niềm tin yêu, lạc quan của họ với cuộc đời. Trước kia mất nước, ta chỉ là thân nô lệ, nay đất nước đã về ta người lao động đã ở tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời của mình, đúng như lời thưo của Tố Hữu:

Đời vui đó, tiếng ca đoàn kết
Ta nắm tay nhau xây lại đời ta.

Bằng sự liên tưởng của bút pháp lãng mạn, Huy Cận lại tưởng chừng như “câu hát căng buồm” chứ không còn phải gió căng buồm nữa. Sụ liên tưởng ấy càng làm đẹp thêm ý thơ, diễn tả khí thế, sự phấn khởi đang ngập tràn tâm hồn người lao động. Câu thơ với vần bằng “khơi-khơi” thật êm, thật nhẹ như cùng với sức gió , câu hát đẩy thuyền ra khơi.
Người ngư dân vẫn tiếp tục cất cao những câu hát vui tươi:

Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Bài hát ngợi ca biển Việt Nam có nguồn hải sản thật dồi dào, phong phú. Biện pháp liệt kê: “cá bạc, cá thu” kết hợp với nghệ thuật so sánh “cá thu… như đoàn thoi” đã biến những chú cá như những con thoi lao nhanh, tạo thành đoàn thoi dệt biển. Càng sinh động hơn khi trên biển xanh, vẩy cá ánh bạc chuyển động, dọc ngang không ngừng nghỉ. Đoàn cá lại được nhân hóa trở thành những người thợ đang miệt mài dệt lưới.
Lời hát gọi cá thể hiện một ước vọng chân thành, giản dị của nhân dân: đánh bắt được thật nhiều cá ngon. Lời hát ấy cũng là một khát vọng được cống hiến thật nhiều, thật hữu ích cho đất nước.

Đánh cá ban đêm đầy vất vả, khó nhọc bỗng trở nên đầy chất thơ trong suy nghĩ của người ngư dân:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng

Với bút pháp lãng mạn bao trùm, xuyên suốt khắp bài thơ, Huy Cận lại đưa ta đến một liên tưởng đầy thi vị, đẹp đẽ: Chiếc thuyền: “lái gió” ấy chở đầy cả một “buồm trăng”. Gió, trăng đã chan hòa khắp đại dương, khắp con thuyền, biến con thuyền thành một “thuyền tiên, thuyền thơ” giữa một không gian thơ mộng, đầy huyền ảo. Những hình ảnh kì vĩ: “mây cao, biển bằng” tuy mang phong vị thơ cổ nhưng vẫn đậm chất hiện thực đã nâng con người lên ngang tầm vũ trụ, thiên nhiên, sống chan hòa với cảnh trời nước bao la, tuyệt vời. Công việc đánh cá nặng nhọc sao giờ bỗng trở nên nhẹ nhàng, nên thơ quá. Đó chính là tâm trạng của con người khi được sống, được cống hiến, được làm chủ biển khơi, đất nước nên luôn lạc quan, yêu đời.

Lãng mạn, bay bổng với dòng cảm xúc nhưng họ lại rất thựuc tế khi trở về với công việc:

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Bằng vài nét chấm phá, Huy Cận đã biến đoàn thuyền thành đoàn thám hiểm đai dương để tìm ra nguồn tài nguyên quý giá. Chỉ có hai câu thơ nhưng lại sử dụng liên tiếp hàng loạt động từ “…đậu…dò…dàn đan…vây giăng’, phải chăng tác giả đã muốn diễn tả được nhiệt tình lao động, sự khẩn trương, hối hả của đoàn thuyền trong công việc. Họ làm việc với tất cả sức lực, kinh nghiệm, tài năng, trí tuệ để đem lại kết quả cao nhất. Hình ảnh :”dàn đan thế trận” khắc họa một nét đẹp nữa của ngư dân: họ đang hiệp đồng, trựo lực nhau để lao vào một “trận đánh” thực sự với khát vọng giành thắng lợi.

Lời thơ lại tiếp tục ngân vang với những giai điệu ca ngợi biển quê hương:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.

Phan tich bai tho doan thuyen danh ca cua huy can canh keo luoi

Hình ảnh kéo lưới trong phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

Nhà thơ đã liệt kê những loài cá ngon được kể trong câu thành ngữ “chim, thu, nhụ, đé”. Vâng, biển Việt Nam không chỉ đẹp mà còn giàu nữa. Những loại hải sản dồi dào, quý giá đólà một nguồn lợi lớn mà thiên nhiên ban tặng cho con người Việt Nam. Giờ đây, biển cả hiện ra như một bức tranh sơn mài điểm tô bởi những sắc màu tươi sáng “vàng chóe đen hồng”. Và cũng thật kì diệu, tất cả màu sắc ấy xuất phát từ cái đuôi chú cá “quẫy” làm xao động mặt nước, từ thân hình chú cá song đang tung tăng bơi lội. Chính từ cảm xúc say mê, ngây ngất trước vẻ đẹp giàu của biển cả, nhà thơ đã gọi cá bằng “em”. Cách gọi ấy thể hiện tình cảm trìu mến, thái độ trân trọng những sản vật của biển khơi và sự gắn bó, yêu mến mà tác giả dành cho thiên nhiên, biển cả. Trong sự tĩnh lặng của vũ trụ, Huy Cận chợt nghe:

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Chất lãng mạn đã tạo nên một liên tưởng hết sức độc đáo: đêm như một sinh vật với hơi thở của sự sống. Nhịp thở của đêm chính là nhịp thở sống đang nhấp nhô. Thật là một sự sáng tạo đầy thi vị làm gợi nhớ đến lời thơ:

Nghe hơi thở của đồng quê mộc mạc
Bãi phù sa xanh mượt ngô non.
(Tố Hữu)

Phải lắng tâm hồn lại, phải hiểu biết và yêu mến thiên nhiên thì mới có thể cảm nhận được điều đó.

Chính gió tạo nên sóng và những ngọn sóng ấy đang lùa muôn vì sao phản chiếu trên mặt nước chuyển động, tan biến. Nhưng với tâm hồn lãng mạn của người thi sĩ, Huy Cận đã diễn tả đến một hình ảnh thật gợi cảm: hòa trong nhịp sóng có trăng vàng, sao lấp lánh huyền ảo. Những vì sao “không ngủ” ấy đang “lùa nước Hạ Long”. Thật là một liên tưởng bất ngờ diễn tả vẻ đẹp sinh động, lung linh của biển cả. Khi đã yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời tha thiết thì hồn thơ của tác giả mới khai mở những từ thơ đẹp, đầy ngẫu hứng như thế.
Lời hát đưa thuyền ra khơi thì cũng chính là lời hát vang lên trong nhịp điệu lao động của người ngư dân:

Ta hát bài ca đón gió vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Tiếng hát xua tan bao vất vả, mệt nhọc, thể hiện ngọn lửa nhiệt tình không hề tắt trong tâm hồn người ngư dân. Họ vẫn tha thiết yêu đời, yêu lao động. Lời hát gọi cá chính là một ước vọng, khát khao được cống hiến thật tốt, thật nhiều cho xã hội, đất nước, hòa nhịp vào không khí chung những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nếu hình ảnh “buồm trăng” là một liên tưởng độc đáo, sáng tạo thì càng thú vị hơn khi nhà thơ nghe: “trăng gõ nhịp” trong bản hùng ca lao động của đoàn thuyền. Từ hiện thực ánh trăng in trên mặt nước được sóng xô vào mạn thuyền đã được bbút pháp lãng mạn chắp cánh làm đẹp thêm công việc đánh bắt cá.

Cảm nhận của nhà thơ về biển vừa thân thương lại vừa mang tính triết lý, suy tư:

Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tựu buổi nào.

Câu thơ khiến ta nhớ đến suy nghĩ của nhạc sỹ Y Vân:
Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào.

Ở đây nhà thơ đảo ngược lại sự vật, hình ảnh khi so sánh “biển…như lòng mẹ”. Có gì bao dung, nhân hậu hơn tấm lòng của mẹ. Mẹ cho con dòng sữa ngọt ngào, lời ru êm ái, mẹ sẵn sàng quên mình, hi sinh vì con. Biển như lòng mẹ vì đã nuôi đàn con khôn lớn bằng nguồn hải sản dồi dào, đã vỗ về, an ủi những ưu phiền của con bằng lời ru muôn thuở của sóng, chắp cánh cho bao ước mơ bay bổng của đàn con.

Cả bài chỉ có một chi tiết tả thực cảnh kéo lưới nhưng chi tiết này cũng nằm trong mạch cảm xúc lãng mạn:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.

tho moi phan tich bai tho doan thuyen danh ca cua huy can

Văn mẫu – Phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

Khi sao mờ cũng là lúc một đêm sắp tàn. Đoàn thuyền đã lao động miệt mài suốt đêm mà giờ đây khí thế nhịp điệu chẳng những không suy giảm mà còn được đẩy lên cao, cao mãi. Điệp từ “kéo” diễn tả động tác liên tiếp, thuần thục của ngư dân “kéo xoăn tay” gợi lên hình ảnh người ngư dân với những cơ bắp cuồn cuộn đem hết sức lực để kéo những mẻ lưới lên. Chỉ với chi tiết, hình ảnh gợi tả trên, Huy Cận đã “tạc” bức tượng người ngư dân tràn trề sức sống. Biển cả đã không phụ lòng người khi những mẻ lưới đầy ắp cá, những mẻ lưới được thi vị như những trùm quả sai trái, ngon lành.

Bóng đêm dần tan đi để bức tranh đại dương chỉ còn lại những gam màu tươi sáng:

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Thật bất ngờ, kì diệu khi rạng đông lại “lóe” nên từ “vẩy bạc, đuôi vàng” của những chú cá. Tất cả màu sắc tươi tắn, đẹp đẽ ấy là của cá, từ cá mà có. Người ngư dân đã tìm thấy nơi lao động ý nghĩa của cuộc sống, nhận ra nơi thành quả lao động một niềm vui sướng, hạnh phúc lớn lao.

Người ngư dân “lưới xếp, buồm lên” để chuẩn bị ra về. Họ chờ đón “nắng hồng” của ngày mới hay chờ đón niềm vui, niềm hạnh phúc, hi vọng vào cuộc sống đnag đến với họ?
Đoàn thuyền kết thúc buổi lao động để trở về với những hình ảnh lao động thật gợi cảm:
Câu hát căng buồm với gió khơi.

Đây chính là câu thơ được lặp lại, tạo nên một âm hưởng hào hùng, sôi nổi của điệp khúc lao động. Ra đi với câu hát phấn khởi, lao động bằng bài hát nhiệt tình thì họ đã trở về với câu hát đầy hạnh phúc, vui sướng vì kết quả thắng lợi tốt đẹp của chuyến đi biển. Điệp từ “hát” cho ta cảm nhận được niềm lạc quan, yêu đời của người lao động. Bên cạnh những hình ảnh quen thuộc lại xuất hiện những hình ảnh mới lạ, gợi cảm về đoàn thuyền khi trở về:

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Phan tich bai tho doan thuyen danh ca cua huy can lop 8

Phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận- lớp 9

Bình minh trên đại dương thật đẹp đẽ, kì vĩ!. Hình ảnh “mặt trời đội biển” không chỉ là ý niệm về thời gian mà còn diễn tả sự vận động mạnh mẽ của mặt trời, đi lên từ lòng sâu đại dương. Cả thiên nhiên như bừng dậy sau một đêm dài. Con người nào kém, hình ảnh: “đoàn thuyền chạy đua…” diễn tả sự khẩn trương của ngư dân, muốn mau chóng về bến trước khi trời sáng hẳn. Đặc biệt là hình ảnh “mắt cá huy hoàng” mang ý nghĩa ẩn dụ làm liên tưởng đến muôn vàn mặt trời nhỏ bé đang tỏa sáng niềm vui, niềm hạnh phúc. Đoàn thuyền trở về trong không gian chan hòa màu sắc của thiên nhiên và cả màu sắc của thành quả lao động. Cả một mạch thơ như đang tuôn chảy, một mạch thơ của niềm vui xốn xang như Xuân Diệu đã viết:

Muốn chùm hạnh phúc giữa trời xanh
Có lẽ lòng tôi cũng hóa thành ngói mới.

Đoàn thuyền đánh cá thật là một tác phẩm nổi bật, thành công về nội dung nhất là nghệ thuật của thơ ca hiện đại Việt Nam. Bằng nét bút tài hoa, sắc sảo, bằng tâm trạng ngây ngất “say cảnh say người”, Huy Cận đã giúp ta khám phá vẻ đẹp, giàu của biển cả, thiên nhiên, nét đẹp rực sáng trong tâm hồn người lao động. Chất lãng mạn, trữ tình của bài thơ lan truyền, thổi bùng trong trái tim mỗi người nguồn cảm xúc dạt dào, thêm yêu đời, yêu cuộc sống, thể thiện thiết tha ước vọng đóng góp bàn tay, khối óc để xây dựng quê hương Việt Nam ngày thêm giàu mạnh.

Hai bàn tay ta hãy làm tất cả!
Xuân đã đến rồi. Hối hả tương lai.

phan tich bai tho doan thuyen danh ca cua huy can

 

Bài văn mẫu số 2: phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận:

Huy Cận là 1 khuôn mặt tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông trước cách mạng tháng 8, nhân vật trữ tình thường cô đơn nhỏ bé, lạc long, bơ vơ trong vũ trụ bao la, huyền bí khôn cùng. Chính cách mạng tháng 8 kì diệu và cuộc sống mới sau cách mạng đã đem tới cho nhà thơ một cái nhìn ấm áp tươi trẻ, tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống, vào con người. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của ông là 1 minh chứng về điều đó. Bài thơ ra đời năm 1958, trong nguồn mạch cảm xúc biết bao yêu thương về 1 cuộc sống “ mỗi ngày lại sáng”. Đó vừa là 1 bức tranh đẹp đẽ, vừa là 1 khúc ca hào hung về những người đánh cá trên biển cả bao la của tổ quốc. Mỗi người dân làng chài thật phấn khởi, say mê với công việc của mình trong tư thế thực sự làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời mới

Qua phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ta thấy được sự hăng say trong lao động của dân làng trài

Khi đi sâu vào phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá, ngay mở đầu bài thơ, ta đã nghe thấy âm hưởng bài ca lao động ngân vang, khỏe khoắn cho đoàn thuyền ra khơi. Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn trên biển, vừa diễm lệ huy hoàng, vừa đầy sức sống:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

Điểm nhìn của nhà thơ ở đây là điểm nhìn tưởng tượng, phải ở rất xa mới nhìn được vùng biển phía Tây, nơi mặt trời đang lặn xuống giống như 1 hòn lửa khổng lồ đang rực cháy. Đây là 1 liên tưởng so sánh thật bất ngờ, thú vị. Vũ trụ bao la, huyền bí như 1 cái nhà nhà khổng lồ mà đêm tối là cánh cửa sập xuống mà những con song chạy ngang trên biển là những then cài. Cảm quan vũ trụ của nhà thơ thật kì lạ, độc đáo, mở ra sự phong phú trong trí tưởng tượng của người đọc. Quang cảnh kết thúc thật kì vĩ, tráng lệ của 1 chu kì thiên nhiên ấy lại là sự mở đầu 1 ngày lao động mới của con người:

“ Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Từ “lại” cho thấy đây chỉ là sự tiếp diễn nhịp điệu lao động của người đánh cá, cảnh ra khơi khi hoàng hôn buông xuống đã diễn ra thường xuyên liên tục qua nhiều đêm. Trên hành trình ra biển ấy, cũng như mọi lần, tiếng hát của họ vút cao, vang xa trên song nước mênh mang. Ở đây, “ căng buồm” là thật ( vì gió thổi mạnh trên biển khơi), nhưng “câu hát” căng buồm lại là ảo. Tuy vậy, chính cái ảo ấy lại hiển hiện cái thực: đó là khí thế mạnh mẽ của người đánh cá khi ra khơi. Tiếng hát của họ là tiếng hát của những con người dám chinh phục biển khơi:

“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”

phan tich bai tho doan thuyen danh ca cua huy can 4

Biển cả thật đẹp và giàu có, thân thiết biết bao với con người. Từ “bạc” trong câu thơ thứ nhất là một định ngữ nghệ thuật, có ý nghĩa số lượng cá nhiều, phong phú, tạo nên sự giàu có, quý giá của biển. Hình ảnh so sánh được xây dựng trên 1 liên tưởng rất thực tế: “ Cá thu biển Đông như đoàn thoi”. Từ đó, chúng ta hiểu 2 câu thơ sau là những hình ảnh nhân hóa rất tinh tế. Trong sự tưởng tượng của những người đánh cá, cá bơi dưới biển là cá dệt biển và cá mắc vào lưới là cá dệt lưới. “ Đến dệt lưới ta …”, từ “ta“ vang lên đầy tự hào kiêu hãnh, không còn cái tôi nhỏ bé đơn côi như những ngày xưa nữa mà là một cái “ta” tập thể đầy sức mạnh

Tiếp theo niềm cảm hứng say sưa, bài ca lao động vẫn vang lên khỏe khoắn, ngợi ca cảnh đánh cá trên biển, dưới trời trăng sao. Tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt đẹp:

“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lới vây giăng.”

Tác giả đã sáng tạo khi sử dụng hình ảnh nói quá: đoàn thuyền đánh cá như đi trong sự vây bọc, nâng đỡ của thiên nhiên. Gió – người bạn thân thiết của con người – lái con thuyền ra khơi. Gió thổi phồng căng cánh buồm như vầng trăng khuyết, rồi mây cũng như cao hơn, thoáng đãng hơn,… Tất cả được nhìn từ cặp mắt của những người dân lao động đã dành được quyền làm chủ biển trời quê hương. Cảnh kì vĩ, lớn lao, phóng khoáng bởi con người sảng khoái, tự do. Trong mối quan hệ giao hòa, thiên nhiên càng huy hoàng, lớn lao bao nhiêu thì càng tôn vẻ đẹp con người lên bấy nhiêu. Tầm vóc của họ vụt cao lên, sánh ngang với biển trời vũ trụ, Động từ “ lướt” cho thấy đoàn thuyền chạy rất nhanh trên mặt biển, càng chứng tỏ khí thế phơi phới của người dân làng chài
Có đi sâu phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận, ta không chỉ bặt gặp cái tinh tế về cảm xúc thẩm mĩ mà còn phong phú về vốn sống, bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” cho ta thấy Huy Cận hiểu khá tường tận về công việc của những người đánh cá. Đoàn thuyền đã tìm thấy đúng bãi cá và lưới đã được buông xuống:

“ Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở : sao lùa nước Hạ Long.”

Đây là cảnh thực hay tưởng tượng? Ở đây, quả thật có sự pha trộn giữa thực tế và ảo mộng, làm cho biển đêm có 1 vẻ đẹp thật lãng mạn, huyền ảo. Những con cá song lấp lánh như những ngọn đuốc hồng giữa biển đêm thăm thẳm. Cái đuôi cá song quẫy chẳng khác gì mảnh trăng vàng lóe sáng trên mặt biển. Hình ảnh thật nên thơ với cách gọi cá là em, hiển hiện tình yêu thiên nhiên thật mãnh liệt
Nhà thơ mở rộng hồn mình để đón nhận bao vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên, để cảm nhận nhịp thở của thiên nhiên qua những đợt song dâng lên hạ xuống đầy ánh sao. Biển và trời như đã hòa vào làm một và hình ảnh con người hiện lên đẹp đẽ biết bao giữa cái vũ trụ lung linh đấy. Một lần nữa, tiếng hát của họ lại cất lên giữa bao la biển trời:
“ Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

Tiếng hát hiển hiện niềm vui trong lao động của người dân chài. Đồng thời còn biểu hiện những mong muốn đánh bắt được nhiều cá của họ. Cảm xúc cùa họ thật bay bổng, phóng khoáng, chen chúc tình yêu đời. Họ lao động khẩn trương, luôn tay gõ nhịp dồn cá vào lưới. Với sự liên tưởng kì thú, một lần nữa, nhà thơ đã viết: “ Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” . Phải chăng ánh trăng tỏa lấp lánh trên mặt biển, sóng dâng đầy ánh trăng, vỗ vào mạn thuyền từng nhịp đã khiến nhà thơ miêu tả công việc của người đánh cá thú vị và đẹp như vậy. Đây thực sự là 1 bài ca lao động, vừa hào hung, vừa giàu chất thơ. Nhưng có lẽ, bài ca say đắm nhất là bài ca về sự giao hòa, siết bao thân thiết giữa con người và biển cả. “ Biển cho ta cá như lòng mẹ” Đây là 1 hình ảnh so sánh đẹp: lòng mẹ, nguồn tình cảm yêu thương đã nuôi dưỡng mỗi con người. Biển không chỉ đẹp, giàu có mà còn rất ân tình. Biển không chỉ nuôi dưỡng con người hôm nay và mai sau mà biển đã “ nuôi lớn đời ta từ buổi nào”

Đêm sắp tàn và 1 ngày mới đang đến:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi hồng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. “

Khổ thơ gợi hình dung về hình ảnh những người lao động làng chài thật khỏe khoắn. Chỉ 1 từ “ xoăn” mà gợi tả được những bắp tay săn chắc, vừa nói được cái hồ hởi, hăm hở của những người lao động mong muốn thấy được hiệu quả lao động của mình. Và lưới rất nhiều cá:” … chùm cá nặng” đúng với mong mỏi của dân chài. Câu thơ thứ 3 miêu tả thật đẹp hình ảnh con cá đang được kéo từ biển lên. Vẩy đuôi của chúng lấp lánh ánh bình minh rực rỡ. Những từ “bạc, vàng”, một mặt diễn tả sự giàu có của biển cả, đồng thời cũng cho thấy thái độ tôn trọng của những người đánh cá với những thành quả lao động của mình. Và dường như, đó còn là niềm biết ơn của họ trước sự hào phóng, ưu ái của biển cả đối với con người. Công việc kết thúc tốt đẹp, họ trở về trong trạng thái sảng khoái, phấn chấn.

Khi phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ta chợt nhận ra bài ca lao động ngân vang hào hung nhất, hay nhất ở khổ thơ cuối: diễn tả cảnh trở về của đoàn thuyền trong khung cảnh bình minh rực rỡ, tráng lệ:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Bốn câu thơ dựng lên 1 quang cảnh kì vĩ về cuộc chạy đua giữa đoàn thuyền đánh cá với mặt trời trên biển cả. Qua đó, thêm một lần nữa, Huy Cận khắc họa thật đậm nét vẻ đẹp khỏe mạnh của những người đánh cá và vẻ đẹp hùng vĩ của biển trời, của thiên nhiên tổ quốc. Ý thơ phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca trong lao động. Mở đầu là câu thơ lập lại gần nguyên văn câu thơ đầu trong khổ thơ thứ nhất: có cảm giác đây là điệp khúc trong 1 bài hát – bài hát ngợi ca niềm say mê lao động trên biển quê hương. Đây là lần thứ 3 tiếng hát vang lên, có khác chăng tiếng hát ở đây hiển hiện rõ hơn niềm vui – niềm vui chiến thắng của con người khi thu được kết quả rực rỡ sau 1 đêm lao động vất vả. Tiếng hát ấy vang lên say sưa hùng tráng trên đoàn thuyền băng băng rẽ sóng trở về. “ Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.”

Đến đây, qua phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ta thấy hình ảnh hào hùng của đoàn thuyền là 1 hình ảnh nhân hóa mang tính chất thập xưng. Những người dân đánh cá làm việc suốt 1 đêm nhưng họ vẫn quyết tâm trở về khi trời sáng. Động từ “ chạy đua” cho thấy sức lực của họ vẫn dồi dào, khí thế lao động của họ vẫn mạnh mẽ. Họ chạy đua với thời gian, với mặt trời. Đặt trong sự tương ứng mới thấy sức mạnh của con người được miêu tả nổi bật hơn, câu thơ đã nâng cao tầm vóc của con người trước vũ trụ. Vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của bình minh trên biển đã được miêu tả thật gợi cảm ở câu thơ thứ 3 : “ Mặt trời đội biển nhô màu mới.” Câu thơ làm toàn cảnh thiên nhiên sáng lên với 1 màu mới: màu hồng cảu bình minh. Cái màu hồng rực rỡ đầy sức sống ấy chính là lời chào đón ân cần, thắm thiết của thiên nhiên với những người lao động cần cù, có nghị lực phi thường. Cái đẹp của cảnh bình minh ấy chính là ở câu cuối: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi” Câu thơ có thể gợi ra 2 hình ảnh trong liên tưởng của người đọc. Một là hình ảnh đoàn thuyền nối đuôi nhau trở về, chiếc nào cũng cá đầy khoang. Hàng triệu triệu mắt cá phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh, huy hoàng trên cả 1 vùng biển rộng. Hai là hàng triệu triệu gợn sóng cũng phản chiếu ánh bình minh rực rỡ giống như muôn ngày mắt cá trên muôn dặm khơi. Dù là hình ảnh nào, thì câu thơ cũng thể hiện 1 vẻ đẹp bao la hùng vĩ và sự giàu có, phong phú của biển cả, của thiên nhiên đất nước

Qua phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá,, tác giả đã cho ta thấy đây là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cân và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui đó với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Hơn bốn thập kỷ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó. Phần nào, bài thơ giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao biến cố lịch sử trọng đại của đất nước và dân tộc. Một Huy Cận trữ tình cách mạng.

Trên đây là bài phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. Các em cùng tham khảo nhé.

Chúc các em học tốt!

 

You may also like

Leave a Comment