Home Trung học Cơ SởLớp 8 Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh

Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh

by admin

Bài văn mẫu phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh

Bài thơ Quê hương của Tế Hanh là một trong những bài thơ rất nổi tiếng và đã được đưa vào chương trình Ngữ văn THCS để giúp các bạn hiểu rõ hơn về bài thơ này thì chúng ta hãy cũng nhau phân tích bài thơ quê hương này nhé.
Thơ Tế Hanh bao giờ cũng trong trẻo. Dù năm nây nhà thơ đã bước vào tuổi xưa nay hiêm, tâm hồn ông vẫn nguyên vẹn những cảm xúc thuở Hoa niên. Quê hương là nguồn thi cảm dồi dào của Tế Hanh. Những bài thơ hay nhất của ông là những bài thơ viết về quê hương yêu dấu.

Người đọc bắt đầu biết đến Tế Hanh từ bài thơ quê hương in trong tạp nghẹn ngào năm 1939. Trong 14 tập thơ đã xuất bản của Tế Hanh kể từ khi ông bước chân vào làng thơ Việt Nam cho đến nay không tạp nào thiếu vắng những bài thơ viết về quê cũ. Quê hương đã trở thành một hệ thống hình tượng ám ảnh suốt đời thơ Tế Hanh. Thuở hồn nhiên cắp sách tới trường, quê hương trong mắt cậu học trờ nghịch ngợm là những con đường nhỏ chạy lang thang. Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng, là con sông xanh biếc, nước gương trong soi tóc những hàng tre. Khi trưởng thành cầm súng xa nhà đi kháng chiến tâm hồn ông vẫn trở quấn quýt lấy với con sống quê.

Ngay từ đầu bài thơ viết về quê hương người đọc đã có cảm tình với một giọng thơ chân thành rủ rỉ. Chàng thanh niên miền biển kể về làng quê của mình bằng những lời mộc mạc.

Làng tôi vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông

Sau câu thơ mở đầu giản dị cảm hứng đã được khơi nguồn thi sĩ bắt đầu say sưa mô tả cảnh đẹp quê hương:

Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Dòng thơ cứ nhẹ nhàng tuôn chảy, hình ảnh như tự nó thi nhau kéo đến đẩy câu thơ đi liền theo mạch cảm xúc dào dạt của nhà thơ. Ngọn bút của thi nhân chỉ điểm phớt qua vài cảnh vật như bừng sáng trời trong gió nhẹ, sớm mau hồng. Một ngày mới ở làng chài bắt đầu với hình ảnh tươi mát của thiên nhiên và tâm trạng hào hứng của người lao động. Chiếc thuyền băng ra biển trong tư thế của một con tuấn mã khi những trai làng vạm vỡ đầy sinh lực khua những con nhịp chèo hố hả mê say “Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”. Thuyền lướt ra khơi, cánh buồm được kéo lên từ từ rồi bất chợt căng phồng vì no gió… Những hình ảnh so sánh đẹp và gợi cảm đi vào bài thơ một cách tự nhiên, dung dị, như không cần một cố gắng kỹ thuật nào. Dưới ngòi bút của nhà thơ cảnh sớm mai ở làng chài hiện lên đầy vẻ rạng rỡ tinh khôi và điểm sáng huy hoàng nhất là hình ảnh”

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Biết bao thi tứ đã nảy sinh từ cánh bồn kiêu hãnh và thơ mộng. Đối với Tế Hanh cánh buồn là một biểu tượng của làng quê. Cánh buồm mỏng manh như mảnh hồn làng nhưng nó mở rộng bao la như tâm hồn rộng mở của quê hương nó vươn lên dấn thân và che chở… Từ một cánh buồm hết sức cụ thể và đem so sánh mảnh hồn làng vô cùng trừu tượng nhà thơ đã mở ra một khoảng trời thênh thang cho những liên tưởng của người đọc: Cánh buồn hay mảnh hồn làng là sự chở che cho con thuyền nhỏ bé, là sức mạnh góp gió đẩy thuyền đi xa là sự che chở cho con thuyền nhỏ bé. Sức mạnh góp góp gió để chèo lái con thuyền đi xa là phương tiện để cheo lái con thuyền…

phan tich bai tho que huong cua te hanh

Người dân chài ra khơi như mang theo một phần máu thịt của quê hương, cánh buồm gắn với con thuyền như hồn vía làng quê chở che neo giữ họ… Kẻ ra quê lâu ngày thoáng thấy cánh buồm cũng cũng tưởng như bắt gặp hình bóng của làng quê yêu dấu… Tế Hanh với tim mẫn cảm của một nhà thơ đã thấy ở cánh buồm tâm hồn lộn gió của quê hương mình.
Tình cảm gắn bó với làng quê nhà thơ cảm nhận được sâu sắc niềm vui đơn sơ, hồn hậu của những người dân chài khi thuyền cá trở về.

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tập nập đón ghe về
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng

Cuộc sống khắc nghiệt, luôn phải đương đầu với muôn nỗi hiểm nguy nhưng người dân ở đây gắn kết thành một cộng đồng chặt chẽ. Họ hợp lực với nhau trong những chuyến đi biển và cùng nhau gọi nỗi vui buồn. Mỗi lần thuyền ra khơi đánh cá cả người ở nhà lẫn người ra đi đều cầu trời khấn phật để được bình an. Vì thế mỗi khoang cá nặng trở về là niềm vui là hạnh phúc của cả nhà “Cả dân làng tấp nập đón ghe về”. Hơn ai hết người dân chài thấu hiểu đằng nhau những mẻ cá tươi ngon là bao nỗi vất vả gian nan, bao hiểm nguy mà người thân của họ đã từng trải qua. Kho nhà thơ thay họ xúc động thốt lên:

Nhờ ơn trời biển lặng cá đây ghe

Người đọc bỗng cảm thấy một niềm hạnh phúc rưng rưng lan tỏa trong dòng thơ rất đỗi bình thường:

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng

Giọng thơ đang náo nức, sôi nổi ở đoạn đầu, đến đây bắt đầu lắng xuống, nhịp thơ đi chậm lại, ngòi bút nhà thơ chuyển sang đặc tả chân dung người đánh cá và con thuyền về bến.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ

Đây là khổ thơ đẹp nhất gợi cảm nhất của bài thơ giống như một tác phẩm điêu khắc bằng thơ. Nếu như ở phần trên Tế Hanh thiên về mô tả những vẻ đẹp nhìn thấy thì ở đây nhà thơ lại nghiêng về khai thác những vẻ đẹp cảm thấy. Hình tượng thơ vì thế như có chiều sâu hơn. Với làn da ngăm rám nắng, người dân ta làm ta liên tưởng đến một bức tượng đồng vạm vỡ. Hình ảnh đẹp như tượng nhưng ấm nồng sự sống bởi Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Nhà thơ đã thi vị hóa một hiện tượng bình thường trong đời thực – nước biển mặn ngấm vào da thịt người dân chài tạo thành mùi vị riêng trên cơ thể học – để gợi nên một hình ảnh vô cùng lãng mạn chàng đánh cá sau chuyến phiêu du trên biển, lúc trở về còn mang theo hương vị nồng nàn của những vùng biển lạ. Và con thuyền được hình dung như một cơ thể sống động cùng mỏi mệt nằm im trên bến, lặng lẽ cảm nhận vị mặn mòi của biển ngấm vào cơ thể.

Nghe chất muối thâm dần trong thớ vỏ

Trong câu thơ nhân hóa con thuyền, nhà thơ phối hợp tài tình hai hiện tượng: Nước biển ngấm sâu vào vỏ gỗ của con thuyền ngâm nước lâu ngày, tiếng tí tách rạn nứt của lòng thuyền ngấm mình khi phơi mình trên cát… Cả người và thuyền, hai hình tượng đều đẹp phơi mình trên bờ cát… Cả người và thuyền hai hình tượng đều đẹp đến say lòng người trong trạng thái nghỉ ngơi thư giãn. Bao nhiêu tài hoa của nhà thơ như đã dồn tụ ở bốn câu thơ đặc sắc này. Nếu bài thơ kết thúc ở khổ thơ này có lẽ sức gợi cũng chẳng kém gì khi có thêm khổ thơ cuối.

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá

Đoạn kết bài thơ chỉ muốn tổng hợp lại những nỗi nhớ cụ thể của chàng trai. Có lẽ thơ không nên nói đến tận cùng nói đầy đủ như thế chăng.
Nhưng đối với Tế Hanh sự hồn nhiên chân thành trong tình cảm bao giờ cũng lấn át những dụng công kỹ thuật của nghề thơ. Bất chấp thời gian và sự biến đổi của lòng người cảm xúc của quê hương vẫn là nguồn mạch ăm ắp dâng trào trong trai tim thi sĩ, để mỗi lần thấu biển nhà thơ lại xốn xang.

Biển xao động đang nôn nao chiều con nước
Lòng như thuyền chờ đợi buổi ra khơi

Bài văn mẫu phân tích bài thơ quê hương trên hi vọng sẽ là một tài liệu hữu ích giúp các bạn học tốt hơn.

You may also like

Leave a Comment