Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích cảm hứng lãng mạn trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.
Bài văn mẫu Phân tích cảm hứng lãng mạn trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.
Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm bên bờ sông hiền hòa thơ mộng, Quang Dũng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn như tươi nguyên. Hình ảnh những ngày Tay Tiến sống dậy trong tâm trí ông. Bấy giờ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta mới bước sang năm thứ hai, nhưng đã liên tiếp ghi được những chiến công vang dội, bẻ gãy cuộc tiến công lên căn cứ địa Việt Bắc, Thu đông 1946. Năm ấy, Quang Dũng trong đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào; đánh địch trên tuyến rừng Tây Bắc từ Lai Châu đến phía bắc Thanh Hóa. Đời lính chống Pháp vốn vô cùng thiếu thốn khổ cực, người lính trong trung đoàn Tây Tiến còn thiếu thốn khổ cực hơn. Vì “rừng thiêng nước độc”, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi, vì đường hành quân là trập trùng núi rừng Tây Bắc – Thượng Lào hoang vu hiểm trở… Cũn như tất cả những người lính Cụ Hồ ấy, bên tai còn văng vẳng lời thề “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, lời hát hào hùng “bao chiến sĩ anh hùng, lạnh lùng vung gươm ra sa trường”, những chàng trai Tây Tiến chiến đấu bằng phẩm chất anh hùng. Có điều lính Tây Tiến hầu hết là thanh niên Hà Nội, trong đó phần đông là học sinh, tiểu tư sản trí thức nên chất anh hùng của người lính Tây Tiến có phong thái và màu sắc riêng – màu sắc lãnh mạn, hào hoa.
Trước hết cảm hứng lãnh mạn Tây Tiến được nuôi dưỡng bằng “nỗi nhớ”, thật thiết tha mãnh liệt nhưng cũng thật “chơi với” như sự diễn tả của Quang Dũng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Từ “chơi vơi” ở đây được dùng thật đắc địa. Nó đã lột tả được nỗi nhớ trong tâm tưởng nhà thơ. Được sống trong cảm hứng lãnh mạn, nỗi nhớ áy mới như giăng mắc một màn sương, rất khó định hình, rất khó gọi tên. Cũng như môi trường tình cảm nàu mà cả cuộc sống gian khổ chiến đấu với chiến trường, người lĩnh như chìm đắm trong một thế giới phi thường, có gì bí ẩn nhưng cũng thật hào hùng, tha thiết và gần gũi.
Chiến trường trong bài thơ gian khổ, khắc nghiệt nhưng đồng thời cũng là thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, ấm áp và mềm mại, có lục thật hiền hòa thơ mộng. Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc có núi cao, vực sâu, dốc đứng, thác gầm, cồn mây heo hút, lại cả nét duyên dáng của bông hoa đung đưa theo dòng nước lũ, của cô gái trên con thuyền độc mộc… Trên cái nền thiên nhiên kỳ vĩ, dữ dội, trữ tình ấy, nổi bật lên hình ảnh của đoàn quân Tây Tiến khi thì như bị lấp hút đi, khi thì như người đi tìm cảm giác mạnh và đẹp giữa núi rừng. Sự đối chọi và hòa hợp này đã làm nên khí phách anh hùng, vẻ hào hoa của người lính kháng chiến, tạo cho họ sự hấp dẫn và vẻ đẹp khó quên.
Phải vậy chăng mà càng qua thời gian, vẻ đẹp Tây Tiến càng đẹp hơn, lúc nào cũng lôi cuốn, làm say mê người đọc?
Hình ảnh người lính thật kì dị, khác thường: da xanh màu lá, đầu trụi tóc do thiếu thốn bệnh tật vì những cơn sốt rét rừng. Những hình ảnh thực đó vào bài thơ, với giọng và cách diễn tả lãnh mạn của Quang Dũng thành ra như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Hoặc cái chết cũng vậy, những cái chết “hàng loạt” hay những cái chết đau thương – chết mà không biết chết – cũng đều thật hào hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Bởi lẻ ngòi bút Quang Dũng không run sợ trước cái chết của đồng đội. Nhà thơ chỉ muốn “gió bụi, phong trần” hóa cái chết ấy. Và làm đẹo cho hình ảnh người lính “rải rác biên cương mồ viễn cứ”, “áo bào thay chiếu anh về đất”, để ta càng nghe càng như thấy khúng tráng ca về người chiến sĩ tự thuở nào. Hiện thực đầy xóc xa, thương cảm, những người lĩnh hi sinh được chôn cất vào đất không có cả manh chiếu cuốn mà chỉ có áo mặc trên người. Vậy mà bằng ngòi bút lãng mạn, Quang Dũng đã nâng sự thật ấy thành một vẻ đẹp thật hào hùng.
Có thể nói, nét độc đáo của thơ Quang Dũng thường lộ rõ khi thơ ông chen giữa hai thái cực, đã hiện thực thì hiện thực đến dữ dội, đã lãng mạn thì lãng mạn đến mơ mộng. Bút pháp này thể hiện rất rõ khi miêu tả thiên thiên miền Tây Bắc. Ấy là những câu thơ hầu hết là vần bằng được nằm xen kẽ, bên cạnh những câu vần trắc tạo sự đối lập trong âm hưởng. Những câu thơ đó, vì thế mà rất giàu chất tạo hình và gợi cảm. Thiên nhiên vốn đã đẹp và thơ mộng, giờ đây tựa như huyền thoại:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Nếu như “sương lấp” lạnh lùng, nặng nề đe dọa bao nhiêu thì “hoa về” lại nhẹ nhõm, tươi tắn, ấm áp bấy nhiêu. “Hoa về trong đêm hơi” diễn tả một trạng thái lâng lâng vừa đến trong một chặng đường mệt mỏi. Khung cảnh núi rùng mà đoàn quân Tây Tiến bước chân qua, vừa thơ mộng lại vừa hùng vĩ. Tất cả đều được tác giả thể hiện ở khoảng cách xa xa, hư ảo với kích thước có phần phóng đại khác thường. Nói về cái hiểm trở, tác giả đã dùng những hình ảnh thật độc đáo:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Tác giả không viết “súng chạm trời” mà là “súng ngửi trời”, đây là thủ pháp cường điệu hóa (đặc trung của bút pháp lãng mạn), ngoài ra còn thể hiện chất hóm hỉnh, tinh nghịch của người lính. Không những thế, khi nói về dốc cao, tác giả lại dùng tính từ chỉ độ sâu “heo hút cồn mây” và có những câu thơ như bẻ gãy làm đôi:
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.
Ngòi bút Quang Dũng thật độc đáo, đầy ấn tượng. Nếu thơ là nơi thể hiện đầy đủ nhất, sâu sắc nhất ma lực kì ảo của ngôn ngữ thì những câu thơ này quả đúng như vậy.
Tuy nhiên bút pháp lãng mạn không chỉ thể hiện ở việc miêu tả thiên nhiên mà còn thể hiện rất rõ trong việc miêu tả phong thái sống của người chiến sĩ Tây Tiến. Đọc hai câu thơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Ta thấy rõ sự hiện diện của gian khổ khốc liệt. Nhưng điều đặc biệt là những gian khổ khốc liệt này lại dường như lẫn vào bên trong, còn cái hiện ra bên ngoài lại rất lãng mạn. Câu thơ tạo nên hình ảnh đối lập: bên ngoài thì da xanh như lá, đầu không mọc tóc, nhưng bên trong người chiến sĩ thể hiện một phong độ anh hùng, dữ dội và oai hùm nơi rừng thiêng nước độc. Quang Dũng đã không che giấu những gian khổ, thiếu thốn, nguy hiêm mà những người lính phải chịu đựng. Chỉ có điều, qua cái nhìn lãng mạn của ông, họ không ốm yếu, không bi lụy mà chứa đựng một sức mạnh phi thường, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng. Hình tượng người lính vì thế mang dáng vẻ anh hùng kiểu chinh phu một đi không trở lại.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Không những thế, bằng ngòi bút lãng mạn của mình, Quang Dũng đã tạo nên một bức tượng đại tập thể không chỉ bằng những đường nét khắc hoạc dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới.
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Giữa núi rừng miền Taaym họ nhớ về một “dáng kiều thơm”, một bóng hồng thướt tha. Trong bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên, người chiến sĩ nhớ về quê hương nhưng đây là nỗi nhớ của người lính xuất thân từ nông dân, bởi thế nỗi nhớ ấy cũng thiết tha nhưng vẫn mộc mạc, chân thành và gắn liền với những công việc thường ngày:
Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều tranh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.
Đã có một nỗi nhớ ấy của những người lính Tây Tiến bị lên án là “mộng buồn, mộng rớt”, của tầng lớp tiểu tư sản. Nhưng nếu giữa cuộc chiến đầy gian khổ, một đi không hẹn ngày trở về này mà những người lính không nghĩ đến những điều tốt đẹp, không mơ mộng yêu thương thì liệu họ có còn đủ dũng khí để vượt qua gian nan, hiểm nguy và chiến đấu anh dũng không? Trong hoàn cảnh ấy thì niềm tin, chất lãng mạn chính là điểm tựa để con người thêm vững chí.
Nét đặc sắc của Tây Tiến là nói về chiến tranh mà không có một chữ nào về “trận đánh”, về “tiếng súng”. Và ba lần nói đến cái chết thì đều miêu tả một cách thật giản dị “bỏ quên đời”, “về đất”, “hồn về” để bình thường hóa cái chết. Cảm hứng lãng mạn khiến ngòi bút của ông nói nhiều đến cái buồn, cái chết như những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng.
Cảm hứng của Quang Dũng mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
Vượt qua sức cản phá của thời gian, Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với chúng ta hôm nay, gợi nhớ về “những năm tháng không thể nào quên” trong lịch sử dân dộc. Có thể nói Tây Tiến là “một tượng đài bất tử” về người lính vô danh mà Quang Dũng đã dựng lên bằng cả tâm hồn và cảm hứng lãng mạn hào hùng của mình.
Cùng với những bài thơ tiêu biểu của thời kì kháng chiến như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên… Tây Tiến của Quang Dũng đã miêu tả thành công về đề tài người lính, đã góp phần vào viện bảo tàng về người lĩnh bức chân dung người lính Tây Tiến độc đáo, lãng mạn và bi tráng.