Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Nhàn để thấy rõ tâm trạng “Nhàn” của tác giả Nguyễn Bình Khiêm sau khi cáo lão về quê ở ẩn.
I. Phân tích bài thơ Nhàn: Phần tổng quát về tác giả, tác phẩm
- Về tác giả và thời điểm tác phẩm ra đời
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) quê ở làng Trung Am, nay thuộc xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Ông lớn lên khi triều Lê bắt đầu suy thoái và đã chứng kiến sự kiện Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê năm 1527, lập lên nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim tôn Lê Ninh (con của Lê Chiêu Tông) lên làm vua và lập địa bàn tại Thanh Hoá để đánh lại nhà Mạc. Cuộc nội chiến mà lịch sử quen gọi là cuộc chiến Nam – Bắc triều bắt đầu từ đây. Nam triều chỉ triều Lê dưới sự chỉ đạo thực chất của Nguyễn Kim và sau khi Nguyễn Kim mất (năm 1545), quyền lực về tay con rể của Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm. Bắc triều chỉ nhà Mạc, mở đầu là Mạc Đăng Dung. Năm 1592, Mạc Mậu Họp thất bại, tuy họ Mạc vẫn tiếp tục hoạt động một thời gian nửa, nhưng bắt đầu từ năm 1593, triều đình nhà Lê trở lại Thăng Long. Thế kỉ XVI không chỉ chứng kiến xung đột giữa nhà Lê với nhà Mạc. Năm 1545, Trịnh Kiểm cướp quyền của họ Nguyễn nhân Nguyễn Kim chết. Con Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng đã mưu tính tách khỏi Trịnh Kiểm và năm 1558, Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ Thuận Hoá, năm 1570 kiêm trấn thủ Quảng Nam, âm mưu cát cứ lâu dài. Mặc dù chưa có trận đánh nào giữa Nguyễn Hoàng với các chúa Trịnh, nhưng cục diện phân tranh Đàng Trong và Đàng Ngoài đã hình thành từ đây.
Là một trí thức nho sĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm khao khát đem tài năng phục vụ đất nước. Ông thi đỗ Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi năm 1535 dưới triều Mạc. Ông làm quan được tám năm thì dâng sớ xin chém mười tám lộng thần, vua Mạc không chấp thuận. Ông xin về trí sĩ lúc 52 tuổi (năm 1542) tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Tuy đã cáo quan về quê, nhưng ông vẫn được triều đình nhà Mạc mời vào triều hỏi ý kiến (vì ông là một nhân cách và trí thức có uy tín). Có thể nói, phần lớn cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm là ở ẩn.
Bài thơ có thể được viết trong thời gian ông ở ẩn này (tức là từ sau năm 1542). 2. Tri thức văn hoá
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ triết lí và nhà thơ đạo lí. Bài thơ Nhàn thuộc về thơ đạo lí, là tuyên ngôn cho một quan niệm sống giữa thời đại xã hội khủng hoảng. Nguyễn Bỉnh Khiêm từng nói về lối sống chạy theo những lợi ích vật chất mà coi thường đạo lí của người đương thời : “Ở triều đình thì tranh nhau cái danh, ở chợ búa thì giành nhau cái lợi” (Trung Tân quán bi kí).
Nhàn là một thái độ sống, một cách thể hiện quan niệm đạo đức của các nhà nho ẩn dật. Tại sao nhà nho ẩn dật lại thường chọn rừng núi, chọn làng quê làm nơi cư trú ? Câu trả lời có thể tìm thấy chính trong lời của Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa dẫn trên đây. Những chốn đông người (thành – đô thành và thị – chợ búa) thường là nơi bon chen, tranh giành danh và lợi. Tất nhiên khi chạy theo danh và lợi, con người dễ chà đạp lên đạo nghĩa, xa lìa các giá trị đạo đức. Chọn nơi vắng vẻ, xa thế giói thành thị vốn là môi trường tranh giành, bon chen, nhà nho muốn đoạn tuyệt triệt để với mọi cám dỗ của danh lọi để giữ trọn phẩm cách đạo đức của mình. “Nhàn” đối lập vói bon chen, xu phụ, chạy vạy, luồn cúi, âm mưu, thủ đoạn. “Nhàn” không có nghĩa là lười nhác, ăn không ngồi rồi. “Nhàn” có nghĩa là giữ cho tâm hồn lúc nào cũng ở trạng thái yên tĩnh, trong trẻo, hài hoà” (Đinh Gia Khánh – Bùi Duy Tân – Mai Cao Chương, Vãn học Việt Nam thế kỉ X- nửa đầu thế kỉ XVIII, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998).
Trong bối cảnh xã hội khủng hoảng, nhà thơ không tìm được điều kiện để thể hiện tài năng và thực hiện hoài bão vì dân vì nước của mình thì việc sống “nhàn” để giữ vửng.phẩm chất đạo đức là một lựa chọn tích cực.
- Tri thức về thể loại
Cần chú ý đến đặc điểm của sự kết hợp các yếu tố cảnh, sự và tình trong bài thơ này. Bài thơ không tả cảnh, không dẫn dắt cảm nghĩ bằng cảnh mà chỉ bằng các sự việc (việc lao động của một người nông dân và việc kiếm cá của một ngư phủ, việc tìm nơi vắng vẻ, việc sống thuận theo nhịp điệu của tự nhiên như ăn các món ăn của thiên nhiên cấp cho theo mùa như măng trúc – mùa thu, ăn giá – mùa đòng, tắm hồ sen – mùa xuân, tắm ao – mùa hạ, việc uống rượu và nhìn phú quý như chiêm bao). Dễ nhận thấy là không có sự tách bạch rõ ràng giữa sự (thuộc về hiện thực khách quan) và tình (cảm xúc, suy nghĩ chủ quan của tác giả) như ở các bài thơ đã tìm hiểu. Chúng kết hợp đan xen với nhau trong từng khổ thơ, trong ngay từng câu thơ.
Ví dụ trong hai câu vào đề :
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta thấy ở câu đầu tiên, tác giả liệt kê các dụng cụ lao động như mai, cuốc, cần câu, tức là kể các hoạt động của một người ẩn dật. Câu thứ hai đã có sắc thái suy nghĩ, cảm xúc : ngần ấy việc làm đã đủ cho ta vui rồi (thơ thẩn), mặc cho người đời có những thú vui khác (hàm nghĩa thú vui tìm kiếm danh lọi).
Trong hai câu thơ tiếp theo (câu 3 và 4) :
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Các suy nghĩ, cảm xúc lại đi liền ngay vói Sự việc : “tìm noi vắng vẻ”, “đến chốn lao xao” là sự việc, còn “ta dại”, “người khôn” lại là suy nghĩ. Các sự việc được liệt kê theo trình tự tăng tiến, thể hiện mức độ gắn bó với thiên nhiên ngày một chặt chẽ hơn : việc “tìm nơi vắng vẻ” mới nói đến định hướng tìm về không gian ẩn dật, nhưng sự việc “ăn” và “tắm” trong không gian ẩn dật ấy đã diễn tả sinh động vóc dáng nhà nho ẩn dật, vì đã thực sự đắm mình trong không gian ấy rồi.
II – Phần nội dung phân tích bài thơ Nhàn
- phân tích bài thơ Nhàn về đặc điểm nội dung
- a) Những khái niệm cần chú ý
Các từ ngữ mai, cuốc, cần câu là những từ ngữ dùng để chỉ cuộc sống ẩn dật : nhà nho ở ẩn chủ trương tự lao động làm ra các sản phẩm vật chất để sống. Đây có thể chỉ là công thức tả cuộc sống ẩn dật ; trên thực tế, không có tài liệu nào xác nhận Nguyễn Bỉnh Khiêm có đi cày, đi câu hay không.
“Thơ thẩn” có nghĩa là đi dạo chơi không có chủ đích rõ rệt, tuỳ hứng (bài thơ Cô hái mơ của Nguyễn Bính :
Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
– Say nhìn xa rặng núi xanh lơ).
Hai câu 5, 6 kể về việc “ăn” và “tắm” cũng là cách biểu hiện cuộc sống thực chất hoà hợp vói thiên nhiên, thuận theo nhịp bốn mùa của thiên nhiên, tức cũng là không trái với tự nhiên. Trong thơ ca xưa, trở về với thiên nhiên thuần khiết, trong sạch là cách thể hiện lí tưởng đạo đức của nhà nho, người không màng danh lợi.
Phú quý như giấc chiêm bao là một quan niệm phổ biến của văn học xưa, có ý nghĩa răn dạy, cảnh tỉnh những kẻ tham công danh, phú quý mà chà đạp lên luân thường đạo lí. Nhân cách, đạo nghĩa mới là cái có giá trị vĩnh hằng.
- b) Hình tượng tác giả
Bài thơ có nét đặc biệt là chủ ngữ của hành động được xác định trong câu thơ thứ ba : ta dại – người khôn. “Cái tôi” tác gíả được thể hiện trong thế đối lập ta – người. Sự đối lập theo tinh thần này cũng thể hiện trong câu thơ thứ hai ẩn chủ ngữ “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Bởi vì ẩn dật là chấp nhận một lẽ sống đi ngược với dòng đời, người ẩn sĩ là người “lội ngược dòng”. Sự đối lập ấy dẫn đến tư thế “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Một người coi phú quý tựa giấc mơ thì không có một cám dỗ vật chất nào có thể mê hoặc được. Bản lĩnh đạo đức của tác giả được diễn tả khá sâu sắc.
Phân tích bài thơ Nhàn về đặc điểm nghệ thuật - a) Kết cấu của bài thơ
Theo chúng tôi, bài thơ có hai phần khá rõ chứ không theo kết cấu đề, thực, luận, kết cứng nhắc. Mạch cảm hứng đi từ cụ thể đến khái quát.
Phần đầu gồm bốn câu với hai câu đầu dựng hình ảnh một ẩn sĩ “thơ thẩn” với niềm vui của những công việc ẩn dật cụ thể. Hai câu sau vượt lên công việc cụ thể để suy tư về cuộc sống ẩn dật “vắng vẻ”, để đối lập với thế giới thành thị “lao xao”.
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”
Phần thứ hai lại bắt đầu với hai câu (câu 5, 6) tả cuộc sống thanh bạch, giản dị, thuận theo tự nhiên như là chỗ dựa để từ đó nâng lên thái độ mang tính triết lí đối với thế giới vật chất : nhìn xem phú quý (phú quý là cái sang trọng nhân tạo, của con người làm ra) tựa chiêm bao. Nhàn là một thái độ sống, một lựa chọn thiên về giá trị đạo đức trước những cám dỗ vật chất.
b) Ngôn ngữ
Bài thơ thuần Nôm với những từ ngữ thường ngày, dân dã, dễ hiểu.
III. Bài làm tham khảo: Phân tích bài thơ Nhàn
Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan dưới triều Mạc, nhưng sau khi thất bại trong việc dâng sớ xin chém mười tám tên nịnh thần, ông lui về ở ẩn. Trong quãng thời gian lui về ở ẩn, ông đã viết rất nhiều bài thơ, và “Nhàn” là một trong số ấy. Tiêu đề “Nhàn” không phải của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà là do người đời sau đặt. Bài thơ là một lời tâm sự của tác giả về quan niệm sống, một lần nữa khẳng định cách sống an nhàn, hòa hợp với thiên nhiên, giữ tư chất thanh cao, không màng danh lợi.
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.”
Phân tích bài thơ Nhàn ta đã thấy từ Hai câu thơ đầu đã tái hiện lại cảnh sống an nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc bấy giờ cũng như thể hiện tâm trạng của ông. Ở câu đầu tiên xuẩt hiện những công cụ quen thuộc “cuốc”, “cần câu”, cùng từ “một” được lập lại nhiều lần, gợi lên cuộc sống bình dị của một lão nông nhàn nhã. Bên cạnh đó, cách ngắc nhịp đặc biệt 2/2/3 cũng góp phần làm sáng tỏ sự nhàn hạ đó. Ở câu thơ thứ hai, “thơ thẩn” được dùng để thể hiện trạng thái thảnh thơi, không lo âu , vướng bận, khắc họa hình ảnh một con người chậm rãi, khoan thai. Đặt vào hoàn cảnh của tác giả, có thể thấy lúc nhàn rỗi của ông chính là thơi gian ông lui về ở ẩn. “Dầu ai vui thú nào” ý chỉ việc tác giả không quan tâm đến lựa chọn của người khác, không còn bon chen giành giật ở chốn quan trường mà kiên định với sự lựa chọn của bản thân, ẩn mình khỏi vong danh lợi, sống nhẹ nhành vui thú điền viên. Sự lựa chọn của Nguyễn Bỉnh Khiêm càng được thể hiện rõ nét hơn qua hai câu thực tiếp theo.
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.”
Trong hai câu thơ trên, nghệ thuật đối lập được tô đậm qua cách dùng tính từ “dại”-“ khôn”, “vắng vẻ”-“lao xao”. Nguyễn Bỉnh Khiêm tự cho mình là “dại” khi tìm đến chốn thôn quê, “nơi vắng vẻ” sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho người người đuổi theo vinh hoa phú quý, tìm đến “chốn lao xao” . “Nơi vắng vẻ” là nơi yên bình, người người hiền lành chất phác, sống hòa hợp với thiên nhiên, trong khi đó “chốn lao xao” là kinh đô phồn hoa nhộn nhịp, là chốn quan quan trường luôn đầy rẫy những con người bị nhuốm bẩn bởi tiền tài, tham vọng, những âm mưu ngoan độc, nơi người đạp người đi lên. Vậy câu hỏi đặt ra là, lối sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là lối sống vô trách nhiệm? Xét theo hoàn cảnh của ông, khi triều đình đang diễn ra tranh chấp địa vị, quyền lực, mặc cho nhân dân đói khổ thì hoài bảo giúp vua giúp nước an dân của Nguyễn Bỉnh Khiêm tất nhiên là thật khó để thành sự thật. Vì thế, ông đã quyết định rời bỏ “chốn lao xao” để giữ lại cốt cách thanh cao của mình. Ta có thể thấy trong thời gian ở ẩn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn tiếp tục tham vấn cho triều đình nhưng không trực tiếp tham gia vào việc triều chính nên lựa chọn đó của Nguyễn Bỉnh Khiêm là vô cùng thông minh và đầy trách nhiệm, mà đó là cách làm thật đúng đắn. Do đó qua hai câu thơ, tác giả còn sử dụng cách nói ngược, dùng hàm ý mỉa mai. Trong thi phẩm “Dại khôn”, tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm đã một lần nữa thể hiện rõ quan niệm, trí tuệ và nhân cách hơn người của mình khi nói:
“Khôn mà hiểm độc là khôn dại
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.”
Trở lại với cuộc sống ẩn dật của mình, tác giả đã tái hiện lại cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên của mình qua hai câu luận tiếp theo của bài thơ.
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”
Chỉ với hai câu thơ đã đủ thể hiện một bức tranh tứ bình về sinh hoạt cả 4 mùa xuân hạ thu đông mà chỉ khi phân tích bài thơ Nhàn ta mới bắt gặp một bức tranh tuyệt mỹ như vậy. Hai câu thơ vận dụng biện pháp liệt kê, liệt kê cả bốn mùa cũng những thức ăn, sự vật có trong mỗi mùa. “Mùa nào thất nấy”, quả vậy, tác giả sống hòa mình vào thiên nhiên, không cần những thứ xa hoa, cao sơn mĩ vị. Cuộc sống ông đạm bạc đến không thể đạm bạc hơn, có gì ăn đó, còn gì dùng nấy, không cầu kì đòi hỏi. Mùa thu thì có măng trúc, khi đông đến, vạn vật không thể đâm chồi lại có giá thay. Tuy nhiên, bên cạnh nghĩa gốc, lại có ý kiến cho rằng, “giá” ở đây còn có nghĩa là “giá rét”. Xuân Diệu cũng từng nói rằng “cảm tưởng tác giả ăn giá tuyết, uống măng đông”. Theo cách nghĩ này, có thể nói ông không cần một cuộc sống ấm no đầy đủ, dù có thiếu thốn đôi chỗ nhưng ông vẫn rất hài long với cuộc sống hiện tại. Xoay tiếp sang “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.” Câu thơ diễn tả bức tranh sinh hoạt không chỉ bình dị mà còn đầy tính thẩm mĩ. Tất cả đã xây dựng nên một cuộc sống đạm bạc, giản dị, thanh cao.
“Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Hai câu kết này như phủ định lại chữ nhàn mà tác giả thể hiện từ đầu bài thơ đến giờ, chỉ ra rằng tác giả là “nhàn thân không nhàn tâm”, tức ngoài mặc ông có vẻ thoải mái, nhàn rỗi nhưng trong lòng luôn vướng bận nhiều lo âu, suy nghĩ. Ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sử dụng điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say. Khi say, Thuần Vu Phần mơ thấy đến nước Hòe An, được rất nhiều vinh hoa phú quý, nhưng cuối cùng tỉnh mộng và nhận ra đó chỉ là giấc mơ. Khi sử dụng điển tích này, Nguyễn Bỉnh Khiêm như nhấn mạnh bản thân xem nhẹ phú quý, bởi bản thân ông đã từng làm quan cho nhà Mạc, có đủ phú quý nhưng ông không xem trọng nó, không lấy nó làm mục đích sống, chỉ xem đó như là một giấc mộng không có thật, khiến người ta sa vào để rồi hụt hẫng khi giật mình tỉnh dậy, nên ông đã tìm đến nơi làng quê thanh bình để giữ lại cho mình cốt cách thanh cao. Khi phân tích bài thơ Nhàn, tới đây người đọc đã thấy rõ ở hai câu thơ cách thể hiện một cái nhìn, quan niệm sống của một vị quan có trí tuệ lớn, có tính triết lí sâu sắc. Ngoài ra, với cách ngắt nhịp 1/3/3 đầy mới lạ, Nguyễn Bỉnh Khiêm như muốn nhấn mạnh thêm về cái nhìn của mình.
Mặc dù bài thơ “Nhàn” là một bài thơ được viết bằng chữ Nôm, cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả đầy giản dị, tự nhiên khiến người đọc cảm thấy dễ hiểu, cũng là cách làm rõ quan niệm sống nhàn của ông. Nguyễn Bỉnh Khiên còn qua bài thơ, kết hợp tính trữ tình vào triết lí, làm bài thơ thêm phần thâm trầm nhưng sâu sắc. Bài thơ không chỉ thể hiện cái nhìn và cuộc sống của tác giả, về sự hòa mình vào thiên nhiên, mà nó còn thể hiện cốt cách thanh cao, không màng danh lợi nhưng lại không thể tránh khỏi việc trong lòng vẫn còn vướng bận việc nước, lo nghĩ cho dân, nhân mạnh trí tuệ và nhân cách hơn người của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
“Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là tiêu biểu cho dòng thơ Nôm trong nền thơ ca Việt Nam nói chung và kho tàng văn học trung đại nói riêng. Khi phân tích bài thơ Nhàn ta cũng nhận thấy một bức thông điệp sống của ông muốn truyền lại quan niệm sống trong sạch, thanh cao đến các thế hệ mai sau.