Đề bài: Phân tích bài thơ cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi, vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, là một con người tài năng kiệt xuất. Ông không chỉ để lại di sản phong phú về các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn khẳng định tài năng của mình qua sự nghiệp văn chương đồ sộ. Có thể nói, ông là người khởi đầu cho nền thơ cổ điển bằng tiếng Việt qua tập thơ Nôm “Quốc âm thi tập” nổi tiếng. Bài “Cảnh ngày hè” là một bài trong số đó, nơi mà tác giả đã gửi gắm mọi tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của mình:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.”
Bài thơ được sáng tác vào khoảng thời gian Nguyễn Trãi về ở ẩn ở Côn Sơn. Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập để về với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi dân dã; để rồi ghi lại cảm xúc phấn chấn của mình trước cảnh vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi gắm khát vọng dân giàu, nước mạnh vào bài thơ
Mở đầu bài thơ là vẻ đẹp rực rỡ của bức tranh thiên nhiên ngày hè:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Câu lục ngôn mở đầu giới thiệu hoàn cảnh sống và tâm trạng của nhà thơ lúc bấy giờ:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Về hình thức, đây là sự phá cách, cách tân táo bạo trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật: Phần đề có hai câu, nay chỉ còn một câu, lại là câu lục ngôn. Bên cạnh đó, nhịp thơ 1/2/3 chậm rãi phản ánh tư thế ung dung, tự tại vốn có của tác giả. Chữ “Rỗi” tách riêng thành một nhịp thể hiện sự nhàn nhã của ông, một người luôn luôn bận rộn với việc nước, việc dân. Đây là lúc ông được sống ung dung, được thỏa ước nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng mơ ước. Tác giả ngồi “hóng mát” trong cảnh “ngày trường”. “Ngày trường” là ngày dài. Đây là cảm giác về thời gian của người sống trong cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người bận rộn, luôn muốn cống hiến như Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng thể hiện rõ hơn hết. Ông rơi vào hoàn cảnh phải “hóng mát” hết ngày này qua ngày khác trong khi đất nước đang gặp khó khăn, rơi vào tâm trạng “bất đắc chí”. Một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi như hiện lên đằng sau câu thơ ấy… Việc đặt thanh bằng ở cuối câu là một sự cách tân mới khiến câu thơ nghe như tiếng thở dài nhưng không giống lời than thở, đồng thời thể hiện tâm hồn luôn rộng mở để đón nhận thiên nhiên và cuộc sống xung quanh của nhà thơ
Dường như, chỉ có vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư của cảnh vật mới có thể tạm xua đi nỗi phiền muộn vương vít trong tâm hồn tác giả. Ông mở lòng với thiên nhiên:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Thiên nhiên dưới nét bút của Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh quê tươi khỏe, hài hòa và tràn đầy sức sống. Cây hòe với “tán rợp giương”, xanh um, trong khi cây lựu nở đầy những bông hoa “phun thức đỏ” và sen hồng thì “tiễn mùi hương”. Sức sống trong cây đang “đùn đùn” dâng lên cành, lên hoa, lên lá. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào cả tâm hồn thi sĩ.. Với cách miêu tả từ gần đến xa bằng nhiều giác quan, màu sắc sinh động, hài hòa, kết hợp với các động từ mạnh, từ láy, bốn câu thơ đầu đã tái hiện được bức tranh thiên nhiêu mùa hè sinh động, căng tràn nhựa sống, đồng thời thể hiện được tình yêu thiên nhiên của nhà thơ
Nếu bốn câu thơ trên, Nguyễn Trãi chỉ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của vùng quê thôn dã thì ở hai câu thơ tiếp theo là vẻ đẹp thanh bình của bức tranh cuộc sống:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Từ tượng thanh “lao xao” đặt trước hình ảnh “chợ cá” làm nổi bật không khí nhộn nhịp của “làng ngư phủ”, đó là tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Hay tiếng ve kêu “dắng dỏi” như tiếng đàn bỗng vang lên trong “lầu tịch dương” báo hiệu chấm dứt ngày hè ở vùng quê. Tất cả những âm thanh ấy hòa lẫn vào nhau tạo nên bức tranh âm thanh sinh động, náo nhiệt, nó là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Cảnh vật, thiên nhiên vào cuối ngày thật yên vui, thanh bình, nhưng cuộc sống thì không dừng lại…
Cỏ cây, hoa lá, con người đầy sức sống khơi dậy trong lòng nhà thơ cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng. Đó là tấm lòng ưu ái của ông đối với dân với nước, một tình yêu cuộc sống, yêu con người:
“Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
“Ngu cầm”, điển tích về cây đàn của thời vua Nghêu, vua Thuấn, là thời đại thái bình thịnh trị trong lịch sử Trung Hoa cổ, được tác giả mượn để nói lên ước muốn của ông: “dẽ có” được trong tay cây đàn ấy, đàn một tiếng để dân chúng đều được giàu có, no đủ. Ẩn sau khát vọng ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quan thần tham bạo ở triều đình đương thần không còn nghĩ đến dân, đến nước. Vậy mới thấy, dù sống trong tâm trạng “bất đắc chí”, Nguyễn Trãi vẫn cảm nhận được cuộc sống thường ngày, gắn bó với thực tế, không nguôi ngoai nỗi niềm dân nước. Ông luôn khát khao được đem tài trí để thực hành tư tưởng nhân nghĩa yêu nước thương dân. Câu thơ sáu chữ ngắn gọn, súc tích, nhịp 3/3 đã tạo âm hưởng mạnh mẽ, thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài thơ.
Việt hóa thơ Đường luật, sáng tạo thơ thất ngôn xen lục ngôn, vận dụng những hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh vào cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống con người, bài thơ đã vẽ nên một bức tranh mùa hè vui tươi, đầy sức sống, qua đó nhà thơ gửi gắm lòng yêu mến quê hương đất nước, hoài bão giúp nhân dân xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc
“Cảnh ngày hè” không chỉ tiêu biểu cho “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi mà còn là một trong những bông hoa chữ Nôm của nền văn học Việt Nam. Bằng cách sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật độc đáo, bài thơ đã làm toát lên vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước cũng như vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi, thể hiện rõ tư tưởng yêu nước thương dân và tinh thần sống có trách nhiệm với dân với nước