Ôn thi THPT Quốc Gia môn Văn: Thầy giáo Vũ Thanh Hòa sẽ hướng dẫn các em học sinh tìm hiểu chi tiết tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
1. Tác giả Tô Hoài
– Cây bút hiện thực, nhà văn của phong tục tập quán;
– Lối kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn.
2. Tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: 1952 – 1953, Tô Hoài cùng cán bộ chiến sĩ lên Tây Bắc giải phóng các dân tộc miền núi;
Năm 1952 Tô Hoài đi cùng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc . Trong chuyến đi này nhà văn đã có dịp sống găn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số ( Thái , Mường, Mông , Dao ..)nên đã để lại nhiều kỉ niệm, hiểu biết về cuộc sống con người miền núi Thôi thúc Tô Hoài viết ” Truyện Tây Bắc” trong đó có ” Vợ chồng A Phủ”
” Vợ chồng A Phủ” (1952) in trong tập truyện “Tây Bắc”. Truyện được giải nhất Truyện và kí VN năm 1954- 1955. Tác phẩm gồm hai phần , đoạn trích trong sách giáo khoa là phần một.
Tóm tắt tác phẩm :
Mị và A Phủ là đôi thanh niên nam nữ người HMông. Do hoàn cảnh gia đình túng quẫn Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra . A Phủ vì đánh nhau với A Sử – con trai Pá Tra, bị xử phạt không có tiền trả nên cũng phải đi ở trừ nợ cho nhà thống lí . Cuộc sống nô lệ của Mị và A Phủ ở Hông Ngài không khác gì những con vật nuôi trong nhà Thống lí Pá Tra. Một lần vì để hổ ăn thịt mất bò, A Phủ bị nhà thống lí Pá Tra bắt vạ, đânhs trói man rợ giữa sân nhà. Trong lúc chờ chết, APhủ được Mị cởi trói. Hai người cùng nhau trốn thoát khỏi nhà thống lí đến Phiềng Sa và trở thành vợ chồng. Tại đây A Phủ gặp A Châu -người cán bộ CM, do được A Châu giác ngộ , A Phủ nhiệt tình tham gia du kích. Vợ chồng APhủ bắt đầu cuộc sống mới.
– Truyện gồm hai phần: phần đầu chủ yếu nói về cuộc đời của Mị và APhủ ở Hồng Ngài, bị chà đạp, đày đọa trong nhà thống lí Pá Tra cho đến khi Mị cắt dây trói cho APhủ và cae hai bỏ trốn. Phần hai nói về sự đổi đời của hai nhân vật ở Phiềng Sa.
3. Đặc sắc nghệ thuật:
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm dặc sắc ( A Phủ được miêu tả chủ yếu qua hành động; Mị chủ yếu khắc họa tâm tư)
– Trần thuật uyển chuyển linh hoạt , cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ , tự nhiên mà ấn tượng , kể chuyện ngắn gọn , dẫn dắt tình tiết khéo léo.
– Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục tập quán của người dân miền núi.
– Ngôn ngữ sinh động chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ,…
4. Chủ đề:
Những người nông dân miền núi cao không cam chịu sự áp bức, bóc lột, đã vùng lên phản kháng để đi tìm cuộc sống tự do.
Mời các em xem chi tiết bài giảng trực tuyến Thầy giáo Vũ Thanh Hòa ở dưới đây nhé!
Tham khảo một số bài văn mẫu liên quan đến truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
Đề văn số 1: Em hãy phân tích nhân vật Mị (trọng tâm đoạn trích SGK Lớp 12) để thấy được “Tô hoài đã xây dựng nhân vật theo quá trình phát triển cách mạng”
Dàn bài gợi ý đề số 1:
1/ Nhân vật Mị:
a. Trước lúc về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra – Là cô gái Mèo trẻ, đẹp.
– Khao khát sống tự do, khao khát tình yêu và cô được trai làng theo đuổi. – Lao động giỏi.
– Là đứa con hiếu thảo.
Tóm lại: Mị có những phẩm chất rất đáng tôn trọng và rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
b.Làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí
– Vì cha mẹ không trả nổi nợ vay thống lí làm đám cưới lúc trẻ nên Mị phải làm dâu trả nợ.
– Mị thành một nô lệ bị đoạ đày, bị hành hạ, bị tước hết mọi quyền sống nên không còn ý thức, sống như cái xác không hồn (cô ngồi bên tảng đá trơ lạnh, buồng Mị ở gần tàu ngựa, mặt Mị luôn cúi xuống buồn rười rượi…)
– Cô không còn ý niệm về thời gian. Thế giới mà cô nhận thức được qua các ô cửa vuông bằng bàn tay “mờ mờ trăng trắng” “không biết là sương hay là nắng”. Ý niệm về thời gian bị tiêu diệt thì ý nghĩa của cuộc sống cũng bị thủ tiêu.
c. Khát vọng hạnh phúc và sự phũ phàng của hoàn cảnh
– Cầm nắm lá ngón định quyên sinh vì không chịu sống tủi nhục.
– Vì thương bố Mị “quen trong cái khổ” an phận làm trâu ngựa và luôn bị ám ảnh bởi thần quyền: “Ta về trình ma nhà nó rồi chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây”.
– Tiếng sáo và “những đêm tình mùa xuân” đánh thức sức sống tiềm tàng mãnh liệt, cái giấc mộng lứa đôi, một thời Mị khao khát. Cô nhớ quá khứ, sống trong quá khứ, cô quên đi thực tại phũ phàng và con người tự do, ham sống ngày nào hành động để đáp ứng nó.
(Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi, Mị quấn lại tóc, Mị với tay”… Câu văn rành rẽ các hành động gấp gáp như lòng khát khao được tung cánh bầu trời tự do).
– Nhưng A Sử (chồng Mị) đã lạnh lùng không nói, nó coi Mị như một con trâu, con ngựa đã đứt dây buộc. Nó cũng rành rẽ các hành động để trói đứng Mị vào cột từ hai tay rồi sau đó là từ “bắp chân” trở lên, cả mái tóc cũng được “quấn lên cột”. Mị bị trói rồi mà cô vẫn không tin được đó là sự thật. Cái lòng ham sống bị đánh thức của đêm xuân này vẫn còn một thế năng để cho “tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”… Để rồi sau đó chua chát hơn nhận thấy mình “không bằng con ngựa”.
– Nếu không có A Phủ đánh A Sử để người ta cởi trói cho Mị đi kiếm lá thuốc cho chồng thì có lẽ Mị cũng phải chịu chết như một người đàn bà khác trong nhà này. Đúng là “chúng nó thật độc ác” “bắt trói người ta đến chết”.
2/ Diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ
– Những đêm khuya, Mị ra thổi lửa để sưởi, Mị đã thấy A Phủ bị trói, Mị bị A Sử đánh vì ngứa chân ngứa tay nhưng cô vẫn cứ ra sưởi. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Mị đã sống vô ý thức, tâm hồn đã vô cảm, chai sần.
– Đêm nay nhìn thấy nước mắt A Phủ, Mị nhớ lại đêm năm trước bị A Sử trói, khi “sợi dây gai dưới bắp chân vừa lỏng ra, Mị ngã gục xuống”. Đêm ấy Mị đã khóc, còn bây giờ đây Mị dường như không còn biết khóc nữa. Chính dòng nước mắt nhân tình khổ đau đã thành dòng nham thạch nung chảy tâm hồn đã đóng băng của Mị. Thì ra đôi mắt “trừng trừng”, những cái đấm đá và bao nhiêu hành động phi nhân mà Mị phải chịu đã trở thành cuộc đời thường của cô. Cho nên dòng nước mắt chính là sự kiện bất bình thường gợi khơi
cô nhớ lại quá khứ. Vừa thương mình, vừa căm phẩn lũ người tàn ác vừa bị ám ảnh bởi cái chết, ám ảnh bởi con ma nhà thống lí, vừa nhớ tới một người đàn bà cùng thân cùng phận như mình đã chết trong quá khứ vừa nghĩ tới số phận phải chết vô lí của A Phủ… Tâm hồn Mị nổi sóng bấn loạn. Vậy là dòng nước mắt của A Phủ đã làm mị nhớ tới nước mắt của mình, Mị nhớ tới cái chết nhãn tiền của A Phủ. Từ số kiếp A Phủ, Mị lại nghĩ tới mình đã về “trình ma nhà nó rồi” không phương thoát khỏi nhưng A Phủ không lí gì phải chết…
– Những ý nghĩ ấy thực ra nó thúc đẩy bắt buộc phải có hành động đáp ứng. Mị cởi trói cho A Phủ và đặt mình phải lựa chọn con đường chạy theo A Phủ hay là được trói đứng như ngày nào cho đến chết. Thời điểm hệ trọng này “con ma” cũng không đủ sức giữ chân Mị lại, Mị cứu A Phủ là tự cứu mình mà cô đã không biết. Chẳng cưới xin, họ đã trở thành vợ chồng từ cái đêm đầy ý nghĩa ấy, cái đêm vì nghĩa trước lúc vì tình”.
– Đây là đoạn văn bản lề khép mở hai cuộc đời. Đóng lại một kiếp khổ nhục, nô lệ để đi vào một cuộc đời chồng vợ chủ động xây dựng cuộc sống mới. Tô Hoài đã làm cho mạch truyện chuyển biến hợp lí, khiến cho tác phẩm không có những vết cắt, và những chỗ ghép giả tạo. Cũng cần lưu ý giọng văn ở đoạn này rất đa dạng. Giọng kể, giọng bán trực tiếp của nhân vật của và giọng nhân vật,.. Những giọng này góp phần mổ xẻ tâm trạng, Mị khá thành công, khá sinh động và có sức thuyết phục người đọc khá cao.
Bài văn mẫu cho đề số 1
Đọc “ Tắt đèn” của Ngô Tất Tố ta không thể quên được hoàn cảnh cuộc đời của chị Dậu- cuộc đời của kẻ khốn khó cùng quẫn trong những ngày tháng sưu cao thuế nặng. Để có tiền nộp sưu cho chồng( thuế thân) và người em chồng đã mất. Chị Dậu đã phải bán con, chị Dậu tưởng khổ đến thế là cùng, nhưng người phụ nữ bất hạnh ấy còn có một gia đình đầy yêu thương… cho đến khi đọc truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài ta mới nhận thấy rõ hơn, sâu sắc hơn nỗi khổ của người miền núi nói chung và điển hình là nhân vật Mị. Một cô gái xinh đẹp hiếu thảo nhưng lại là nạn nhân của chế độ phong kiến bất cong tàn ác. Xã hội ấy đã biến Mị trở thành một con người câm nặng, vô cảm, lầm lũi, nhưng cuối cùng con người ấy không chịu số phận tự vùng lên cứu người và giải thoát chính bản thân mình.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô giá Mèo xinh đẹp, thổi sáo hay và có nhiều chàng trai mê, cô chăm chỉ hiếu thảo với cha già, trong cô luôn luôn khát vọng về một cuộc sống tự do. Nhưng món nợ truyền kiếp do bố mẹ Mị lấy nhau không có tiền vay thống lí Pá Tra năm nào cũng phải trả lãi một nương ngô, đó là sợi dây oan nghiệt đối với Mị. Hạnh phúc không đến với Mị thời con gái, Mị đã bị A sử con trai thống lí Pá Tra bắt cóc đem về cúng trình ma Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Mị làm dâu nhưng thực chất là nô lệ, vùi dập, chà đạp tước đi mọi quyền sống của con người, từ đây Mị sống kiếp sống của con vật. Ở đoạn đầu của tác phẩm hình ảnh Mị “ một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy dù quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ả cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách miêu tả này của Tô Hoài đã cho người đọc thấy được các trơ lì, vô cảm của Mị giống như kiếp con ngựa. Hình ảnh ấy đối lập hoàn toàn với nhà thống lí quyền thế giàu có “có nhiều nương nhiều ruộng nhiều thuốc phiện nhất làng”. Trong công việc Mị lúc nào cũng cúi mặt xuống Mị nghĩ “ mình không bằng con trâu con ngựa”. Căn buồn Mị ở như chuồng nhốt thú kín mít qua ô cửa sổ bằng bàn tay mình nhận ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng. Nó thể hiện sự tù túng âm u lạnh lẽo giống như địa ngục trần gian hãm thể xác và tâm hồn của Mị. Mị không chỉ bị tước đoạt về sức lao động mà còn bị áp chế về cả tinh thần “ nó đã bắt mình về trình mà nhà nó rồi thì chỉ còn đợi chết ở đây thôi”. Lúc mới làm dâu nhà thống lí Pá Tra đêm nào Mị cũng khóc, tủi cực Mị tìm đến cái chết. Mị toan ăn lá ngón tự tử. Nhưng Mị thương cha già “mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì ai làm nương ngô ngô giả được nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Không được con ơi!” Mị ném nắm là ngón xuống đất. Mị quay trở lại với kiếp sông trâu ngựa “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Những chi tiết gây ám ảnh ngột ngạt bức bối về một nhà tù rùng rợn về số phận, kiếp người, cuộc đời bị áp bức nơi địa ngục trần gian. Nhà văn đã cất lên tiếng nói đòi nhân quyền của con người. Tố cáo tội ác của xã hội phong kiến miền núi tàn ác vô nhân đạo đã làm tàn lụi niềm vui sống của con người. Nhưng điều đau xót nhất với Mị là phải sống với người chồng mà mình không thương yêu lại còn bị đánh đập hành hạ. Những đêm tình mùa xuân lại trở về trên núi cao, tiếng sáo tiếng khèn gọi bạn tình Mị muốn đi và nhẩm theo lời bài hát, Mị uống rượu. Nhưng khát vọng của Mị chưa được thực hiện thì bị A sử chặn đứng lại dùng một thúng sợi đay A sử trói đứng Mị suốt đêm trong căn buồng u tối. Dây trói xiết chặt làm cho da thịt Mị đau nhức như bị đứt ra từng mảng, đau đớn xót xa Mị nghĩ “ kiếp mình không kiếp ngựa”.
Sau khi A Phủ đánh A sử bị thương, Mị được cởi trói để đi lấy lá thuốc cho chồng “Mị cũng thức suốt đêm im lặng ngồi xoa thuốc dấu cho chồng. Lúc nào Mị mỏi quá, cựa mình, thì những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mị lại gục đầu nằm thiếp đi. Khi đó, A sử bèn đạp chân vào mặt Mị. Mị choàng thức, lại nhặt nắm là thuốc xoa đều trên lưng chồng”. Những đêm đông trên núi cao dài và buồn nếu như không có bếp lửa làm bạn thì Mị sẽ chết tàn chết héo, mỗi đêm Mị trở dậy hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Có đêm A sử chợt về thấy Mị ngồi đấy hắn liền đánh Mị ngã ngay xuống bếp lửa. Hành động của Asử cho thấy hắn là một kẻ vũ phu, những quan niệm lạc hậu của xã hội phong kiến miền núi vẫn còn tồn tại.
Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã không để cho Mị sống mãi kiếp ngựa trâu mà còn phát hiện ở Mị cái khả năng thay đổi cuộc đời. Khả năng ấy bắt nguồn từ quy luật “ có áp bức có đấu tranh”. Đó là việc Mị cởi trói cứu A Phủ Với Mị là vậy còn với A Phủ những hành động ấy còn tàn ác dã man hơn. Trước hết điều đó được thể hiện ở màn xử kiện phạt vạ. Mở màn là hình ảnh đầy ám ảnh A Phủ bị trói, bị đánh đập một cách tàn nhẫn “ người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ chửi, lại hút”. Tất cả cứ như một vòng tuần hoàn “ cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Hành động tàn ác ấy đã khiến “ mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giâp chảy máu”. Tất cả đâu chỉ có vậy, sự tàn ác còn được thể hiện khi A Phủ làm mất con bò để hổ ăn thịt, A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra trói đứng vào cột ở giữa núi rừng mùa đông Hồng Ngài. Sương muối giá buốt lại bị bỏ đói. Chỉ là mất con bò thôi mà bọn chúng đã coi mạng sống của con người như một con động vật rẻ mạt, không có giá trị
Nếu như trong cùng một giai đoạn văn học này, trong tác phẩm”Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, chị Dậu phải chịu sự ràng buộc của sưu cao thuế nặng, thì trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” này cả hai nhân vật đều chịu sự chi phối ràng buộc của thần quyền. Đó chính là phương thức hữu hiệu để giai cấp thống trị nô dịch người dân nghèo. Mị bị bắt về làm dâu với thân phận đàn bà, lại đã cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra, Mị không còn cách nào khác chỉ biết sống tiếp “nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” và từ đấy Mị sống trong danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất là thân phận nô lệ.
Chính nỗi đau bất hạnh của Mị và A Phủ cùng với sự tàn nhẫn độc ác của cha con thống lí Pá Tra đã làm thức dậy tinh thần phản kháng của người đàn bà yếu đuối. Tình thương tiềm ẩn trong Mị không chết, cũng như sức sống của Mị không thể bị tê liệt hoàn toàn. Trong đêm đông rẻo cao ấy sức sống của Mị đã hồi sinh khi Mị bắt gặp dòng nước mắt của A Phủ “ một ngọn lửa sưởi vừa bùng lên Mị né mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước lấp lánh đang bò xuống hai hõm má xám đen lại”. Giọt nước mắt của người đàn ông tràn đầy sức sống giàu can đảm nhưng ở đây đang ở thết tuyệt vọng và oan ứ đã có tác động sâu sắc tới Mị. Giọt nước mắt ấy đã khiến Mị từ cõi quên đến cõi nhớ. Nhớ lại A sử đã trói Mị không quên cảm giác uất hận đau đớn và từ đây trái tim Mị không cô đơn nữa. Mị đã thấy được kẻ thù “ chúng nó thật độc ác” quá phẫn lộ “ cơ chừng này chỉ đêm mai người kia sẽ chết,chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Cách ngắt nhịp ngắn và điệp từ “ chết” đã diễn tả những căm phẫn và xót thương đang ào ạt dâng lên trong lòng Mị. Bởi hơn ai hết Mị hiểu thế nào là chết đau, chết đói, chết rét, trên cơ thể kia. Trỗi dậy trong lòng Mị lúc này là tinh thần phản kháng mạnh mẽ, tình thương đã đem lại chó Mị sức mạnh khiến Mị từ người phụ nữ vô cảm, cam chịu nô lệ trở thành người phụ nữ can đảm mạnh mẽ. Mị toan định cởi trói cho A Phủ, nhưng Mị nghĩ đến biết đâu A Phủ chạy trốn được Mị bị trói thay vào đó và chết ở đó thì sao? Nhưng dù nghĩ như vậy nhưng Mị cũng không thấy sợ bởi lòng can đảm và sức mạnh trong Mị đã trở lại. Nó đã dẫn đến hành động táo bạo rút dao cắt đứt dây trói. Đây là hành động bất ngờ đến với cô nhưng lại là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong Mị. Mị đã chạy băng trong đêm tối theo người đàn ông xa lạ với khát vọng một tương lai tươi sáng hơn. Hành động quyết liệt và mạnh mẽ của Mị trong đêm ấy không chỉ giải phóng cho A Phủ mà còn giải phóng cho chính bản thân mình. Cùng lúc đó Mị đã phải vượt lên hai sức mạnh của cường quyền và thần quyền để có sức mạnh tự do đi theo con đường cách mạng. Điều đó chứng tỏ rằng giai cấp thống trị có thể đày đọa người lao động nhưng không thể dập tắt được khát vọng sống và khát vọng tự do của họ.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật rất độc đáo, các kể chuyện đi từ hiện tại đến quá khứ rồi lại đến hiện tại, cách kể chuyện như vậy để cho thấy được số phận cực khổ luôn sống trong đày đọa. Hơn thế chuyện còn sử dụng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật một cách sâu sắc đặc biệt trong đêm tình mùa xuân và trong đêm cứu A Phủ. Tô Hoài đã thành công khi sử dụng hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ để coi đó là động lực cho Mị vùng dậy đấu tranh. Từ đó đến bước ngoặt cuộc đời của hai nhân vật
Viết về cuộc đời và số phận của nhân vật Mị, nhà văn nhân danh quyền con người để nên án, tố cáo tội ác của bọn thực dân và phong kiến đã áp bức đọa đày tước đoạt quyền sống, quyền làm người của họ. Nhà văn không chỉ thương cảm sâu sắc với nỗi đau khổ con người mà còn đồng tình với khát vọng giải phóng, đồng thời còn mở ra cho họ con đường tươi sáng. Từ đó thấy được chiều sâu nhân đạo của nhà văn.